Sông Đáy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Hát Giang)
Sông Đáy
Sông Đáy đoạn qua cảng Ninh Phúc
Tên địa phươngHát Giang (đoạn trên), sông Gián Khẩu (đoạn dưới)
Vị trí
Quốc giaViệt Nam
TỉnhHà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh BìnhNam Định
Đặc điểm địa lý
Thượng nguồnSơn Tây, Phúc ThọĐan Phượng, Hà Nội (3 nguồn)
 • cao độChưa xác định
Cửa sôngCửa Đáy, Kim Sơn
 • cao độ
0 m
 • chiều rộng
Chưa xác định
Độ dài325 km
Diện tích lưu vực7.500 km²
Lưu lượngChưa xác định
Đặc trưng lưu vực
NhánhChưa xác định
Chi lưusuối Yến, sông Nhuệ, sông Bôi, sông Đào


Sông Đáy là dòng sông chảy từ phía tây Hà Nội (trước đây là tỉnh Hà Tây), xuyên qua tỉnh Hà Nam rồi thành ranh giới giữa Ninh BìnhNam Định trước khi đổ ra biển đông tại cửa Đáy. Dòng sông chảy song song bên hữu ngạn hạ lưu sông Hồng.[1][2][3]

Sông Đáy là một trong những con sông dài ở miền Bắc Việt Nam, và là con sông chính của lưu vực sông Nhuệ - Đáy ở phía tây nam vùng châu thổ sông Hồng. Dòng chảy sông Đáy từ Vân Đình tới hạ lưu là tuyến đường thủy quốc gia, riêng đoạn từ thành phố Ninh Bình tới cửa Đáy là tuyến đường thủy quốc gia đặc biệt quan trọng.[4] Trong lưu vực sông Đáy có nhiều sông khác như sông Tích, sông Nhuệ, sông Bùi, sông Bôi, sông Lạng, sông Hoàng Long, sông Sắt, sông Vạc, sông Nam Định, liên quan đến nhau nên đã được quy hoạch thủy lợi chung vào hệ thống sông Đáy.

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Sông Đáy có tên cổ xưa và lâu đời nhất là Hát Giang. Đầu nguồn sông lấy nước từ sông Hồng vào gọi là cửa Hát Môn, nơi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa. Tới triều Nguyễn, tên gọi này vẫn còn được sử dụng chính thức.[5] Theo GS. TSKH Tô Ngọc Thanh thì chữ "Hát" nghĩa là thác nước trong tiếng Mường và dân cư ở đây xưa vốn là người Mường.[6] Về sau, sách Thái Bình hoàn vũ ký của Trung Quốc chép là sông Chu Diên,[7] gắn với tên huyện Chu Diên, cũng có từ thời thuộc Hán, là quê ông Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc.[8] Sông đổ ra biển tại cửa Đại Ác, xưa là nơi Triệu Quang Phục tự vẫn sau khi thua Lý Phật Tử. Cửa này cũng có tên gọi khác là Đại Nha (Ác và Nha đều là con quạ), sau đổi là cửa Đại An, rồi đến cửa Liêu[9] và chưa rõ khi nào xuất hiện tên cửa Đáy.

Từ thời Tiền Lê cho tới thời Hậu Lê, khúc sông giữa đều gọi là Ninh Giang hay sông Chỉ Ninh, gắn với huyện Ninh Sơn xưa.[a][10] Tại đây có địa danh "Ninh Kiều máu chảy thành sông" trong Bình Ngô đại cáo[11] và dân gian cũng thường bảo nhau rằng "Bao giờ chợ Chúc hết người, sông Ninh hết nước, Đặng này hết quan" để nói về dòng họ nổi tiếng trong vùng.[12] Khi chảy đến Ninh Bình, sông hợp lưu với sông Hoàng Long tại ngã ba Gián Khẩu nên cuối nguồn còn gọi là sông Gián Khẩu. Tên này có nghĩa là "bịt mồm" và theo dân vùng Gia Viễn thì liên quan tới sự tích từ thời Mạc. Bà Chúa Vực Vông đã trả thù cho chồng bằng cách bịt mồm viên quan triều đình rồi ném xuống sông Hoàng Long.[13] Kể từ đó cho tới khi Pháp xâm lược, dòng sông này chưa bao giờ được gọi là sông Đáy.

Cùng vẽ năm 1890 nhưng hai tấm bản đồ Bắc Kỳ của Pháp đã chú thích khác nhau:
  • Trái: Song Dai chỉ sông Phó Đáy ngày nay, còn Day chỉ sông Đáy ngày nay
  • Phải: S. Day chỉ sông Phó Đáy ngày nay, còn Lach Day chỉ sông Đáy ngày nay

Tên "Đáy" vốn là của sông Phó Đáy ngày nay, là phụ lưu của sông Lô.[5] Năm 1949, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sáng tác bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy" để nói về con sông chảy qua chiến khu Việt Bắc này.[14] Nhưng trong các bản đồ của người Pháp, do cách phiên âm nên đã có nhiều sự nhầm lẫn giữa Song Dai, S. Day, Lach Day, Cua Day... Vậy nên ngày nay, sông Đáy là tên gọi chính thức của con sông lớn chảy từ Hà Nội về Ninh Bình; còn sông Đáy cổ vốn nhỏ hơn nên bị "giáng" xuống làm Phó Đáy, chảy từ Bắc Kạn về Vĩnh Phúc. Ngoài chuyện tên gọi thì hai con sông này chưa bao giờ gặp nhau.

Đặc điểm dòng chảy[sửa | sửa mã nguồn]

Sông Đáy có chiều dài 250 km nếu tính theo nhánh bên tả, còn theo nhánh chính bên hữu thì sông Đáy dài 325 km (đoạn thượng nguồn còn gọi là sông Tích). Sông Đáy là một trong năm con sông dài nhất ở miền Bắc Việt Nam (Hồng, Đà, , Cầu, Đáy). Lưu vực sông Đáy (cùng với phụ lưu sông Nhuệ) hơn 7.500 km²[15] trên địa bàn các tỉnh thành Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh BìnhNam Định.

Sông Đáy là dòng chảy chính của các sông Tích, sông Bùi, sông Nhuệ, sông Bôi, sông Hoàng Long, sông Sắt, sông Nam Định, sông Vạc. Trước đây đầu nguồn sông Đáy nhận nước của sông Hồng ở địa phận giữa huyện Phúc Thọ và huyện Đan Phượng, Hà Nội. Đoạn sông này được gọi là sông Hát (Hát Giang), xưa có cửa Hát Môn. Song hiện nay khu vực này đã bị bồi lấp, và đã được thay thế bằng tuyến kênh đào Cẩm Đình - Hiệp Thuận. Tuy vậy, nguồn cung cấp nước chính cho sông Đáy chủ yếu vẫn là các nhánh sông Tích, sông Nhuệ, sông Hoàng Long và sông Nam Định.

Ở thượng nguồn, lưu lượng của sông bất thường nên mùa mưa thì lũ quét lại thêm dòng sông quanh co uốn khúc nên dễ tạo ra những ghềnh nước lớn. Đến mùa khô thì lòng sông có chỗ cạn lội qua được nên thượng lưu sông Đáy thuyền bè không dùng được. Đoạn hạ nguồn từ thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội đến cửa Đáy được công nhận là tuyến đường sông cấp quốc gia.

Sông Đáy khi xuôi đến Vân Đình thì lòng sông rộng ra, lưu tốc chậm lại nên có thể đi thuyền được. Khúc sông đây men đến vùng chân núi nên phong cảnh hữu tình. Đến địa phận huyện Mỹ Đức, sông Đáy tiếp nhận dòng suối Yến (thủy lộ vào chùa Hương). Vượt đến tỉnh Hà Nam khi sông chảy vào thành phố Phủ Lý thì dòng sông Nhuệ góp nước từ phía tả ngạn. Sông Đáy tiếp tục hành trình xuôi nam đón sông Bôi (sông Hoàng Long) bên hữu ngạn từ miền núi tỉnh Hòa Bình và Ninh Bình dồn về tại ngã ba Gián Khẩu, cách thành phố Ninh Bình khoảng 10 km về phía Bắc. Đoạn này sông được gọi sông Gián Khẩu. Qua khỏi Ninh Bình khoảng 20 km thì bên tả ngạn có phụ lưu là sông Đào (sông Nam Định) thêm nước rồi tiếp tục nhận nước sông Vạc bên hữu ngạn. Gần đến biển, sông Đáy chuyển hướng từ Tây Bắc-Đông Nam sang Đông Bắc-Tây Nam rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở Cửa Đáy, xưa gọi là cửa Đại An hay Đại Ác thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình và huyện Nghĩa Hưng, tình Nam Định.

Khác với các cửa sông khác ở miền Bắc như: cửa Ba Lạt, cửa Thái Bình, cửa Văn Úc... vùng biển cửa sông Đáy phát triển thiên về xu hướng bồi tụ mạnh nhờ có nguồn bồi tích rất dồi dào từ hệ thống sông Hồng và cửa sông nằm ở vùng bờ biển lõm, tránh được các hướng sóng chính có tác động mạnh ở ven biển đồng bằng sông Hồng.[16]

Các phụ lưu[sửa | sửa mã nguồn]

Sông Đáy có các phụ lưu cấp 1, 2, 3 sau đây:

Đô thị[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách các đô thị bên sông Đáy
Hà Nội Hà Nam Nam Định Ninh Bình
Thị trấn Phùng (tả ngạn)*[b] Thành phố Phủ Lý (xuyên qua) Thị trấn Quỹ Nhất (tả ngạn) Thành phố Ninh Bình (hữu ngạn)
Thị trấn Quốc Oai (hữu ngạn)* Thị trấn Quế (tả ngạn) Thị trấn Rạng Đông (tả ngạn) Thị trấn Bình Minh (hữu ngạn)
Thị trấn Chúc Sơn (hữu ngạn)* Thị trấn Kiện Khê (hữu ngạn)
Thị trấn Kim Bài (tả ngạn)
Thị trấn Vân Đình (tả ngạn)
Thị trấn Đại Nghĩa (hữu ngạn)

Di tích lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Xuôi dòng sông Đáy sẽ gặp nhiều di tích lịch sử lần lượt như:

Sông Đáy trong văn học[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Du có bài thơ chữ Nho, "Thanh Quyết giang vãn thiếu", tả cảnh chiều trên sông Thanh Quyết, tức là sông Gián Khẩu, đoạn hạ lưu sông Đáy[18].
浮撟盡處出平田
歷歷青山在眼前
古徑樵歸明月擔
潮門漁送夕陽船
茫茫遠水三春樹
落落人家兩岸煙
極目鄉關在何處
征鴻數點白雲邊
Phù kiều tận xứ xuất bình điền
Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền
Cổ kính tiều quy minh nguyệt đảm
Triều môn ngư tống tịch dương thuyền
Mang mang viễn thủy tam xuân thụ
Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên
Cực mục hương quan tại hà xứ
Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên
"Chiều sông Đáy"
Cầu nổi cuối thôn mở cánh đồng
Núi xanh lớp lớp mắt ngay trông
Nước lên ngư đẩy thuyền tàn nắng
Lối cũ tiều về gánh sáng trăng
Khói tỏa đôi bờ nhà lác đác
Cây xuân mấy khóm nước mênh mông
Cố nhìn quê quán nơi đâu nhỉ
Trắng một màu mây, cánh cánh hồng
(Thảo Nguyên dịch)
  • Kẽm Trống là một danh thắng nổi tiếng, thực chất là khoảng trống được tạo ra bởi hai bên là núi giữa là sông Đáy như lời của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã vịnh cảnh trong bài thơ Kẽm Trống:
Hai bên thì núi, giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không
  • Nhà thơ Lai Vu (1942-1990) trong bài "Dòng sông quê anh, dòng sông quê em" có câu:
Dòng sông Đáy quê em
Sông trăng hay sông lụa
...
Sóng xanh như mắt trẻ
  • Mùa hoa cải bên sông là tên một câu chuyện, một bộ phim, một bài hát nổi tiếng về dòng sông Đáy.

Vấn đề môi sinh[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ năm 2003, sông Đáy cùng phụ lưu sông Nhuệ bị ô nhiễm nhiều vì nước thải không được khử biến khiến hai dòng sông này bị coi là "sông chết". Năm 2007 chính phủ Việt Nam cho xây công trình đầu mối sông Đáy đưa nước từ sông Hồng ở cống Hiệp Thuận qua hệ thống kênh dài 12 km vào sông Đáy ở cống Cẩm Đình với kỳ vọng làm sống lại dòng sông Đáy và sẽ tạo thành một điểm du lịch trên sông trong tương lai.[19]

Các cây cầu bắc qua sông Đáy[sửa | sửa mã nguồn]

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Sau kiêng húy vua Lê Ninh đổi là huyện Yên Sơn, nay là hai huyện Quốc Oai và Chương Mỹ
  2. ^ Ở thượng nguồn có đê cao bao bọc và lòng sông khi xưa rất rộng, nay đã được bồi đắp thành các bãi bồi nên các thị trấn này còn cách sông một khoảng. Còn ở hạ nguồn các đô thị ngày nay đều giáp trực tiếp với mặt sông.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tập bản đồ hành chính Việt Nam. Nhà xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam. Hà Nội, 2013.
  2. ^ Bản đồ tỷ lệ 1:500.000 tờ F-48-D. Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam, 2004.
  3. ^ Quyết định số 1989/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về Danh mục lưu vực sông liên tỉnh. Thuvienphapluat, 2016. Truy cập 12/05/2017.
  4. ^ Đường thủy quốc gia cấp đặc biệt phải đáp ứng tiêu chí gì?
  5. ^ a b Quốc sử quán triều Nguyễn (2003). Đồng Khánh địa dư chí. Ngô Đức Thọ; Nguyễn Văn Nguyên; Philippe Papin biên dịch. Nhà xuất bản Thế giới. tr. 960.
  6. ^ Cao Minh (15 tháng 1 năm 2011). “GS-TSKH Tô Ngọc Thanh: Suốt đời vì văn hóa dân tộc”. Sài Gòn Giải Phóng. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ Đào Duy Anh (2005). Đất nước Việt Nam qua các đời. Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin. tr. 47.
  8. ^ Phan Huy Lê; Trần Quốc Vượng; Hà Văn Tấn; Lương Ninh (1983). Lịch sử Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học & THCN. tr. 262.
  9. ^ Nguyễn Chí Bền (20 tháng 3 năm 2017). “Vị thế địa văn hóa của Cố đô Hoa Lư và tính cách người Ninh Bình”. Báo Ninh Bình. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ Ngô Sĩ Liên (1993). Đại Việt sử ký toàn thư (PDF). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội. tr. 77.
  11. ^ Nguyễn Trãi (1428). Bình Ngô đại cáo. Ngô Tất Tố biên dịch.
  12. ^ Lan Phương (30 tháng 9 năm 2015). “Đô Đốc Đông Hầu Đặng Tiến Đông”. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2020.
  13. ^ Anh Thu (6 tháng 10 năm 2008). “Bà Chúa Vực Vông”. Hànộimới. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  14. ^ “Đi thuyền trên sông Đáy”. Báo Tuyên Quang. 13 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2007.
  16. ^ DIỄN BIẾN CÁC VÙNG CỬA SÔNG Ở VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU VẬN HÀNH CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN HOÀ BÌNH
  17. ^ Dương Quảng Hàm. Văn-học Việt-Nam. Sài-gòn: Xuân-thu.
  18. ^ Thảo Nguyên. Đọc và dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2007.
  19. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên rfa.org

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]