Đá Hoa Lau

Thực thể địa lý tranh chấp
Đá Hoa Lau
Ảnh vệ tinh đá Hoa Lau (NASA)
Địa lý
Vị trí của đá Hoa Lau
Vị trí của đá Hoa Lau
đá Hoa Lau
Vị tríBiển Đông
Tọa độ7°22′25″B 113°49′37″Đ / 7,37361°B 113,82694°Đ / 7.37361; 113.82694 (đá Hoa Lau)
Diện tích0.35 km2 (đất nổi)
Quản lý
Quốc gia quản lý Malaysia
BangSabah
Tranh chấp giữa
Quốc gia Đài Loan

Quốc gia

 Malaysia

Quốc gia

 Trung Quốc

Quốc gia

 Việt Nam

Đá Hoa Lau (tiếng Anh: Swallow Reef; tiếng Malay: Terumbu Layang-Layang nghĩa là "rạn san hô Chim", phần đảo nhân tạo gọi là Pulau Layang-Layang nghĩa là "đảo Chim"[1]; tiếng Trung: 弹丸礁; bính âm: Dànwán jiāo, Hán-Việt: Đạn Hoàn tiêu, còn đảo nhân tạo được gọi là 拉央拉央岛, bính âm: Lāyāng lāyāng dǎo, Hán-Việt: Lạp Ương Lạp Ương đảo[2]) là một rạn san hô vòng thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm cách đảo An Bang khoảng 60,4 hải lý (111,8 km) về phía đông nam.[3]

Đá Hoa Lau là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, MalaysiaTrung Quốc, trong khi Philippines chính thức không tuyên bố chủ quyền đối với rạn vòng này (xem thêm Nhóm đảo Kalayaan). Hiện Malaysia chiếm đóng đá Hoa Lau từ năm 1983.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Đảo Layang-Layang trên đá Hoa Lau.

Đá Hoa Lauchiều dài tính theo trục đông-tây là 3,8 hải lý (7 km) và chiều rộng là 1,2 hải lý (2,2 km).[3] Phần đảo nhân tạo dài khoảng 1.5 km, rộng khoảng 300 m với tổng diện tích khoảng 0,35 km²[4].

Cơ sở hạ tầng[sửa | sửa mã nguồn]

Khu du lịch trên đảo nhân tạo Layang-Layang.

Khoảng những năm 1984-1985, Malaysia nỗ lực kiến thiết một hòn đảo nhân tạo bằng cách nạo vét cát và san hô ở khu trung tâm của đá Hoa Lau rồi đắp lên góc đông nam,[5] nơi (từng) có những tảng đá cao từ 1,5 đến 3 m.[3][6] Trên đảo có một đường băng dài 1.067 m[7] (hay 1.400 m[8]) với các công trình như tháp điều khiển không lưu, nhà chứa máy bay,... Có hai máy phát điện và hai nhà máy khử nước mặn bằng phương pháp thẩm thấu ngược.[9] Ngoài căn cứ hải quân, trên đảo còn có toà nhà nghiên cứu thuộc Bộ Ngư nghiệp Malaysia.[10]

Du lịch[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1993, Malaysia khai trương dịch vụ du lịch dành cho khách yêu thích lặn biển.[11] Khu nghỉ mát mang tên Avillion Layang Layang tại đây có tám mươi sáu phòng đạt tiêu chuẩn ba sao, một trung tâm lặn biển (thành viên của PADI, Hiệp hội Hướng dẫn viên Lặn biển Chuyên nghiệp) cùng một nhà hàng hai trăm chỗ ngồi, một hồ bơi và cửa hàng đồ lưu niệm.[7][9] Tính đến năm 2006, khu nghỉ mát đã thu hút 1.457 du khách, chủ yếu đến từ Nhật Bản, Pháp, Hàn QuốcTrung Quốc.[10] Đi máy bay từ thành phố Kota Kinabalu (thủ phủ bang Sabah) đến Hoa Lau mất một giờ đồng hồ.[9]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 20 tháng 9 năm 1979, Malaysia công bố các rạn san hô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tuân theo quyết định của Nội các, người ta đã dựng một tháp kỉ niệm trên rạn vòng này vào ngày 21 tháng 6 năm 1980.[10] Tháng 5 năm 1983 (có nguồn ghi tháng 6), Tổng Tham mưu trưởng quân đội Malaysia đã chỉ huy cuộc hành quân ra chiếm đóng đá Hoa Lau[12] với khoảng mười tám binh sĩ thuộc lực lượng PASKAL ("Lực lượng Chiến tranh Đặc biệt thuộc Hải quân").[10] Sự kiện Malaysia chiếm đá này được báo chí ở Hà Nội (Việt Nam) xác nhận vào tháng 9 năm 1983.[13]

Ngày 5 tháng 3 năm 2009, Thủ tướng Malaysia Abdullah bin Ahmad Badawi đã đến đá Hoa Lau và tuyên bố chủ quyền của nước này đối với đá Hoa Lau và vùng biển phụ cận.[14]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ (Hancox & Prescott 1995, tr. 20).
  2. ^ Tên này chỉ để gọi đảo nhân tạo trên đá Hoa Lau.
  3. ^ a b c (National Geospatial-Intelligence Agency 2011, tr. 13).
  4. ^ “Malaysia's Claim in the Spratlys, BORNEO POST (Sabah), Aug. 23, 2015,”. www.pressreader.com. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2022.
  5. ^ Xem ảnh vệ tinh của dịch vụ Google Maps trong Liên kết ngoài.
  6. ^ “Important Bird Areas factsheet: Pulau Layang-Layang” (bằng tiếng Anh). BirdLife International. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2012.
  7. ^ a b “Diving in Malaysia” (bằng tiếng Anh). Malaysia Footsteps (Website of Tourism). 13 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.
  8. ^ “FAQs - How do I get there?” (bằng tiếng Anh). Avillion Layang Layang. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013. Flights will land at a 1400 metres runway on Layang Layang Island
  9. ^ a b c Svrcula, Kurt. “Terumbu Layang-Layang is one of the few last bastions that offer the experience of a perfectly healthy ecosystem” (bằng tiếng Anh). Avillion Layang Layang. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
  10. ^ a b c d Oleh Khairul Anuar Mohamad Noh (12 tháng 12 năm 2007). “Pengkalan TLDM Pulau Layang-layang Kurangkan Pencerobohan” (bằng tiếng Mã Lai). BERNAMA. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2013.
  11. ^ (Valencia, Van Dyke & Ludwig 1999, tr. 36).
  12. ^ (Trần 2011, tr. 259).
  13. ^ (Haller-Trost 1998, tr. 8).
  14. ^ (Trần 2011, tr. 260).

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Haller-Trost, R. (1998), The Contested Maritime and Territorial Boundaries of Malaysia: An International Law Perspective [Các biên giới trên đất liền và trên biển gây tranh cãi của Malaysia: một góc nhìn theo luật pháp quốc tế], International Boundary Studies, 3, Kluwer Law International, ISBN 978-9041196521
  • Hancox, David; Prescott, Victor (1995), A Geographical Description of the Spratly Islands and an Account of Hydrographic Surveys amongst Those Islands [Một mô tả địa lý về quần đảo Trường Sa và bảng kê các cuộc khảo sát thủy văn quần đảo này], Maritime Briefings, 1, International Boundaries Research Unit, University of Durham, ISBN 978-1897643181
  • National Geospatial-Intelligence Agency (2011), Sailing Directions 161 (Enroute) - South China Sea and the Gulf of Thailand (ấn bản 13), Bethesda, Maryland: National Geospatial-Intelligence Agency
  • Trần, Nam Tiến (2011), Hoàng Sa - Trường Sa: Hỏi và đáp, TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ
  • Valencia, Mark J.; Van Dyke, Jon M.; Ludwig, Noel A. (1999), Sharing the Resources of the South China Sea [Chia sẻ các tài nguyên trong Biển Đông], University of Hawaii Press, ISBN 978-0824818814

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]