Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
United Nations General Assembly
الجمعية العامة للأمم المتحدة (tiếng Ả Rập)
联合国大会 (tiếng Trung)
Assemblée générale des Nations unies (tiếng Pháp)
Генера́льная Ассамбле́я ООН (tiếng Nga)
Asamblea General de las Naciones Unidas (tiếng Tây Ban Nha)
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại trụ sở chính ở New York
Loại hìnhPrincipal Organ
Tên gọi tắtGA, UNGA, AG
Lãnh đạoChủ tịch
Trinidad và Tobago Dennis Francis
Hiện trạngĐang hoạt động
Thành lập1945; 79 năm trước (1945)
Trang webwww.un.org/ga
Trực thuộcLiên Hợp Quốc

Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc (tiếng Anh: United Nations General Assembly, viết tắt UNGA/GA) là một trong 5 cơ quan chính của Liên Hợp Quốc. Được thành lập bởi các quốc gia thành viên, Đại Hội đồng triệu tập các kỳ họp thường niên dưới quyền của vị chủ tịch được bầu chọn trong vòng các đại biểu đến từ các quốc gia thành viên.

Là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc có đại diện của tất cả thành viên, Đại Hội đồng có chức năng của một diễn đàn để các thành viên để diễn đạt sáng kiến trong những vấn đề về hòa bình, tiến bộ kinh tế và nhân quyền. Cũng có thể đề xuất các cuộc nghiên cứu, đưa ra những lời khuyên, cổ xúy cho nhân quyền, soạn thảo và phát triển công pháp quốc tế và xúc tiến những chương trình kinh tế, xã hội, văn hóagiáo dục.

Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đang phát biểu tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ở New York vào ngày 25 tháng 9 năm 2003

Lịch Sử[sửa | sửa mã nguồn]

Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc được đề cập lần đầu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945. Kỳ họp đầu tiên của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc được triệu tập ngày 10 tháng 1 năm 1946 tại Westminster Central Hall tại Luân Đôn với các đại biểu đến từ 51 quốc gia[1]. Trong suốt giai đoạn từ 1946-1951, Đại Hội Đồng, Hội Đồng Bảo An, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội đã dẫn dắt các hoạt động tại các tổng bộ tạm thời ở Lake Success, New York. Vào 1952, Đại Hội Đồng đã di dời đến tổng bộ cố định của Liên Hợp Quốc ở Midtown, Manhattan, New York trước khi diễn ra phiên họp thường niên lần thứ 7[2].

Sơ Lược[sửa | sửa mã nguồn]

Phòng họp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc

Kỳ họp thường niên của Đại Hội đồng thường bắt đầu vào ngày thứ ba của tháng 9 và kết thúc vào giữa tháng 12 với chức danh Chủ tịch Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc được bầu vào lúc khởi đầu của mỗi kỳ họp.

Đại Hội đồng biểu quyết bằng cách bỏ phiếu trong các vấn đề quan trọng - đề xuất hòa bình và an ninh; tuyển chọn thành viên cho các cơ quan; thu nhận, đình chỉ và trục xuất thành viên và các vấn đề ngân sách - cần được thông qua bởi đa số 2/3 số đại biểu có mặt và bỏ phiếu. Các vấn đề khác được quyết định bởi đa số quá bán. Mỗi quốc gia thành viên chỉ có một phiếu. Ngoại trừ việc thông qua các vấn đề về ngân sách bao gồm việc chấp nhận một thang bậc thẩm định, nghị quyết của Đại hội đồng không có giá trị ràng buộc đối với thành viên. Đại hội đồng có thể đề xuất về các sự việc trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc, ngoại trừ các vấn đề liên quan đến hòa bình và an ninh thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng Bảo an. Trên lý thuyết, quy chế 1 quốc gia, 1 lá phiếu cho phép các nước nhỏ với dân số tổng cộng chiếm chỉ 8% dân số thế giới có khả năng thông qua nghị quyết với đa số 2/3 trên tổng số phiếu.

Suốt thập niên 1980, Đại Hội đồng trở thành diễn đàn cho "đối thoại Bắc-Nam" - thảo luận về các vấn đề nảy sinh giữa các nước đã công nghiệp hoá và các nước đang phát triển. Những vấn đề này được đưa lên hàng đầu vì cớ sự phát triển thần kỳ và vì có diện mạo đang thay đổi của thành phần thành viên Liên Hợp Quốc. Năm 1945, Liên Hợp Quốc có 51 thành viên, nay con số này là 193, với hơn 2 phần 3 là các quốc gia đang phát triển. Chiếm phần đa số, các nước đang phát triển có khả năng ấn định nghị trình của Đại hội đồng (thông qua phương pháp phối hợp các nhóm quốc gia như G7), chiều hướng các cuộc tranh luận và thực chất của các quyết định. Đối với nhiều quốc gia đang phát triển, Liên Hợp Quốc là nguồn cung ứng cho họ ảnh hưởng ngoại giao và diễn đàn chính cho những sáng kiến ngoại giao.

Các Nghị Quyết[sửa | sửa mã nguồn]

Ngân Sách[sửa | sửa mã nguồn]

Đại hội đồng cũng phê chuẩn ngân sách của Liên Hợp Quốc và quyết định mỗi quốc gia thành viên phải trả bao nhiêu tiền để điều hành tổ chức.

Hiến chương Liên Hợp Quốc trao trách nhiệm phê duyệt ngân sách cho Đại hội đồng (Chương IV, Điều 17) và chuẩn bị ngân sách cho tổng thư ký, với tư cách là "giám đốc hành chính" (Chương XV, Điều 97). Điều lệ cũng đề cập đến việc không thanh toán các khoản đóng góp được đánh giá (Chương IV, Điều 19). Chu kỳ lập kế hoạch, lập trình, lập ngân sách, giám sát và đánh giá của Liên Hợp Quốc đã phát triển qua nhiều năm; các nghị quyết chính về quy trình này bao gồm các nghị quyết của Đại hội đồng: 41/213 ngày 19 tháng 12 năm 1986, 42/211 ngày 21 tháng 12 năm 1987 và 45/248 ngày 21 tháng 12 năm 1990.

Ngân sách bao gồm chi phí của các chương trình Liên Hợp Quốc trong các lĩnh vực như các vấn đề chính trị, công lý và luật pháp quốc tế, hợp tác quốc tế để phát triển, thông tin công cộng, nhân quyền và các vấn đề nhân đạo.

Nguồn vốn chính cho ngân sách thường xuyên là sự đóng góp của các quốc gia thành viên. Quy mô đánh giá dựa trên khả năng thanh toán của các quốc gia. Điều này được xác định bằng cách xem xét tỷ lệ tương đối của họ trong tổng sản phẩm quốc dân, được điều chỉnh để tính đến một số yếu tố, bao gồm cả thu nhập bình quân đầu người của họ.

Ngoài ngân sách thường xuyên, các quốc gia thành viên được đánh giá về chi phí của các tòa án quốc tế và, theo phiên bản sửa đổi của thang đo cơ bản, cho các chi phí của các hoạt động gìn giữ hòa bình.

Bầu Cử[sửa | sửa mã nguồn]

Đại hội đồng được giao phó trong Hiến chương Liên Hợp Quốc bầu các thành viên cho các cơ quan khác nhau trong hệ thống Liên Hợp Quốc. Thủ tục cho các cuộc bầu cử này có thể được tìm thấy trong Phần 15 của Quy tắc Thủ tục cho Đại hội đồng. Các cuộc bầu cử quan trọng nhất cho Đại hội đồng bao gồm những cuộc bầu cử cho sắp tới Chủ tịch Đại hội đồng,Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Hội đồng Nhân quyền, Tòa án Công lý Quốc tế, các thẩm phán của Tòa án Tranh chấp Liên Hợp Quốc, và Tòa phúc thẩm Liên Hợp Quốc. Hầu hết các cuộc bầu cử được tổ chức hàng năm, ngoại trừ cuộc bầu cử thẩm phán vào ICJ, diễn ra hai năm một lần.

Hội đồng hàng năm bầu năm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an với nhiệm kỳ hai năm, 18 thành viên của Hội đồng Kinh tế và Xã hội với nhiệm kỳ ba năm và 14-18 thành viên của Hội đồng Nhân quyền với nhiệm kỳ ba năm. Nó cũng bầu ra lãnh đạo của phiên họp Đại hội đồng tiếp theo, tức là Chủ tịch tiếp theo của Đại hội đồng, 21 Phó Chủ tịch và văn phòng của sáu ủy ban chính.

Các cuộc bầu cử vào Tòa án Công lý Quốc tế diễn ra ba năm một lần để đảm bảo tính liên tục trong tòa án. Trong các cuộc bầu cử này, năm thẩm phán được bầu với nhiệm kỳ chín năm. Các cuộc bầu cử này được tổ chức cùng với Hội đồng Bảo an, với các ứng cử viên cần nhận được đa số phiếu bầu tuyệt đối ở cả hai cơ quan.

Hội đồng cũng vậy, kết hợp với Hội đồng Bảo an, chọn tổng thư ký tiếp theo của Liên Hợp Quốc. Phần chính của các cuộc bầu cử này được tổ chức tại Hội đồng Bảo an, với Đại hội đồng chỉ đơn giản là bổ nhiệm ứng cử viên nhận được đề cử của Hội đồng.

Các Cơ Quan Con[sửa | sửa mã nguồn]

Các cơ quan phụ của Đại hội đồng được chia thành năm loại: 30 Ủy Ban (có 6 Ủy ban chính), 6 Ủy Ban Nhiệm Vụ, 7 Phòng Ban, 4 Hội Đồng và 1 Ban Hội Thẩm, các Nhóm Làm ViệcKhác

Các Ủy Ban (Committees)[sửa | sửa mã nguồn]

Các ủy ban chính[sửa | sửa mã nguồn]

Các ủy ban chính được đánh số theo thứ tự, 1–6:

  • Ủy ban đầu tiên: Giải trừ quân bị và An ninh Quốc tế liên quan đến giải trừ quân bị và các câu hỏi an ninh quốc tế liên quan
  • Ủy ban thứ hai: Kinh tế và Tài chính quan tâm đến các câu hỏi kinh tế
  • Ủy ban thứ ba: Các vấn đề xã hội, văn hóa và nhân đạo với các vấn đề xã hội và nhân đạo
  • Ủy ban thứ tư: Chính trị đặc biệt và phi thực dân hóa liên quan đến nhiều chủ đề chính trị không được Ủy ban thứ nhất giải quyết, cũng như phi thực dân hóa
  • Ủy ban thứ năm: Hành chính và Ngân sách liên quan đến quản lý và ngân sách của Liên Hợp Quốc
  • Ủy ban thứ sáu: Các vấn đề pháp lý liên quan đến các vấn đề pháp lý

Vai trò của nhiều ủy ban chính đã thay đổi theo thời gian. Cho đến cuối những năm 1970, Ủy ban thứ nhất là Ủy ban Chính trị và An ninh cũng có đủ số lượng các vấn đề "chính trị" bổ sung mà một ủy ban chính bổ sung, không đánh số, được gọi là Ủy ban Chính trị Đặc biệt, cũng họp. Ủy ban thứ tư trước đây đã xử lý các vấn đề Ủy thác và Phi thực dân hóa. Với số lượng ngày càng giảm của những vấn đề như vậy cần được giải quyết như các lãnh thổ tin tưởng đã đạt được độc lập và Phong trào phi thực dân hóa đã tiến triển, các chức năng của Ủy ban Chính trị Đặc biệt đã được sáp nhập vào Ủy ban thứ tư trong những năm 1990.

Mỗi ủy ban chính bao gồm tất cả các thành viên của Đại hội đồng. Mỗi người bầu một chủ tịch, ba phó chủ tịch, và một báo cáo viên vào đầu mỗi phiên họp thường kỳ của Đại hội đồng.

Các ủy ban khác[sửa | sửa mã nguồn]

Những thứ này không được đánh số. Theo trang web của Đại hội đồng, điều quan trọng nhất là:

  • Ủy ban Chứng chỉ - Ủy ban này chịu trách nhiệm đảm bảo rằng thông tin ngoại giao của tất cả các đại diện của Liên Hợp Quốc đều theo thứ tự. Ủy ban Chứng chỉ bao gồm chín Quốc gia Thành viên được bầu sớm trong mỗi phiên họp Đại hội đồng thường kỳ.
  • Ủy ban chung - Đây là một ủy ban giám sát được giao nhiệm vụ đảm bảo rằng toàn bộ cuộc họp của Hội đồng diễn ra suôn sẻ. Ủy ban chung bao gồm chủ tịch và phó chủ tịch của phiên họp Đại hội đồng hiện tại và chủ tịch của mỗi trong số sáu Ủy ban chính.

Các ủy ban khác của Đại hội đồng được liệt kê.

Các Ủy Ban Nhiệm Vụ (Commissions)[sửa | sửa mã nguồn]

Có sáu Ủy Ban Nhiệm Vụ:

Bất chấp cái tên của nó, Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UNCHR) (đã bị thay thế từ năm 2006) thực sự là một cơ quan phụ của ECOSOC.

Các Phòng Ban (Boards)[sửa | sửa mã nguồn]

Có 7 Phòng Ban được phân loại thành hai nhóm: a) Ban điều hành và b) Ban thường

Ban điều hành[sửa | sửa mã nguồn]

  1. Ban điều hành Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 57 (I) và 48/162
  2. Ban điều hành của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 2029 (XX) và 48/162
  3. Ban điều hành của Chương trình Lương thực Thế giới, được thành lập theo Nghị quyết GA 50/8

Ban thường[sửa | sửa mã nguồn]

  1. Ban Kiểm toán, được thành lập bởi Nghị quyết GA 74 (I)
  2. Ban Thương mại và Phát triển, được thành lập bởi Nghị quyết GA 1995 (XIX)
  3. Ban Hưu trí Nhân viên Liên Hợp Quốc, được thành lập theo Nghị quyết GA 248 (III)
  4. Ban cố vấn về các vấn đề giải trừ quân bị, được thành lập theo Nghị quyết GA 37/99 K

Hội Đồng (Councils) và Ban Hội Thẩm (Panels)[sửa | sửa mã nguồn]

Hội đồng mới nhất là Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, đã thay thế UNCHR đã nói ở trên vào tháng 3 năm 2006.

Có tổng cộng 4 Hội đồng và 1 Ban Hội Thẩm.

Các nhóm làm việc và những người khác[sửa | sửa mã nguồn]

Có một nhóm các nhóm làm việc đa dạng và các cơ quan phụ trợ khác.

Những kỳ họp đặc biệt[sửa | sửa mã nguồn]

Những kỳ họp đặc biệt có thể được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an, của đa số thành viên Liên Hợp Quốc, hoặc của một thành viên nếu được đa số tán đồng. Một phiên họp đặc biệt được triệu tập vào tháng 10 năm 1995 với sự tham dự của những người đứng đầu chính phủ để kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp Quốc. Một kỳ họp đặc biệt khác được tổ chức vào tháng 9 năm 2000 để chào mừng thiên niên kỷ mới và xúc tiến Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Thêm một kỳ họp đặc biệt nữa (Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005) được triệu tập vào tháng 9 năm 2005 kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập Liên Hợp Quốc và thẩm định sự tiến bộ của Mục tiêu Thiên niên kỷ, cũng như thảo luận đề án In Larger Freedom (Tự do hơn nữa) của Kofi Annan.

Đại Hội đồng được phép hành động để duy trì hoà bình quốc tế nhằm hành xử trách nhiệm chính yếu của mình trong trường hợp Hội đồng Bảo an không có khả năng làm điều này, thường là do bất đồng giữa các thành viên thường trực. Nghị quyết "Đoàn kết cho hòa bình", được thông qua năm 1950, dành cho Đại Hội đồng quyền triệu tập kỳ họp đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp nhằm đưa ra những biện pháp chung – kể cả quyền sử dụng lực lượng vũ trang – trong trường hợp hòa bình bị xâm phạm hoặc có tiến hành xâm lấn. Cần có 2/3 số thành viên ủng hộ đề xuất. Những kỳ họp đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp theo quy trình này đã được triệu tập trong mười trường hợp. Hai kỳ họp gần đây nhất, lần trước vào năm 1982 và lần sau từ 1997 đến 2003, đã được triệu tập nhằm phản ứng lại những hành động của Israel. Kỳ họp thứ chín xem xét tình hình tại những lãnh thổ Ả Rập đang bị chiếm đóng sau khi Israel đơn phương gia hạn luật pháp, quyền tài phán và quyền cai trị tại Cao nguyên Golan. Kỳ họp thứ mười khởi phát bởi sự chiếm đóng Khu Đông Jerusalem và các vấn đề Palestine.

Tại kỳ họp đặc biệt của Đại Hội đồng triệu tập năm 1947, Oswaldo Aranha, khi ấy là trưởng phái đoàn Brasil tại Liên Hợp Quốc, khởi đầu truyền thống vẫn còn duy trì đến ngày nay, theo đó diễn giả đầu tiên của diễn đàn quốc tế quan trọng này luôn luôn là người Brasil.

Cải tổ[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 21 tháng 3 năm 2005, Tổng Thư ký Kofi Annan đệ trình một bản tường trình, In larger Freedom, phê phán Đại Hội đồng quá chú trọng đến sự đồng thuận đến nỗi đã thông qua những nghị quyết kém phẩm chất chỉ để phản ánh "mẫu số chung thấp nhất của các quan điểm dị biệt". Ông cũng chỉ trích Đại Hội đồng chỉ cố thiết lập một nghị trình quá bao quát thay vì tập trung vào "những vấn đề căn bản chủ chốt như tình trạng di dân quốc tế và một công ước toàn diện về khủng bố đã được bàn luận từ lâu". Annan đề nghị thu gọn nghị trình, cơ cấu các ủy ban và thủ tục của Đại Hội đồng; củng cố vai trò và thẩm quyền của chủ tịch Đại hội đồng; nâng cao vai trò của những định chế dân sự và thiết lập cơ chế tái thẩm định những quyết định của các ủy ban nhằm giảm thiểu những ủy thác không được cấp ngân sách và phương cách quản trị vi mô của Ban Thư ký Liên Hợp Quốc. Annan cũng nhắc nhở các thành viên Liên Hợp Quốc về trách nhiệm của họ phải thực thi cải tổ nếu họ muốn nhìn thấy Liên Hợp Quốc ngày càng hoạt động hiệu quả hơn.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “History of the United Nations 1941 - 1950”. web.archive.org. 12 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  2. ^ “The United Nations Headquarters in Long Island's Lake Success - Untapped New York”. web.archive.org. 19 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]