Đảo Robben

Đảo Robben
Robbeneiland
Làng trên đảo Robben
Làng trên đảo Robben
Đảo Robben trên bản đồ Nam Phi
Đảo Robben
Đảo Robben
Quốc gia Nam Phi
TỉnhTây Cape
Đô thịThành phố Cape Town
Diện tích[1]
 • Tổng cộng5,18 km2 (2,00 mi2)
Dân số (2011)[1]
 • Tổng cộng116
 • Mật độ22/km2 (58/mi2)
Racial makeup (2011)[1]
 • Phi đen60.3%
 • Da màu23.3%
 • Da trắng13.8%
 • Other2.6%
First languages (2011)[1]
 • Xhosa37,9%
 • Afrikaans35,3%
 • Zulu15,5%
 • Tiếng Anh7,8%
 • Khác3,4%
Múi giờSAST (UTC+2)
Mã bưu chính (phố)7400 sửa dữ liệu
Hộp thư bưu điện7400
LoạiVăn hóa
Tiêu chuẩniii, vi
Đề cử1999 (Kỳ họp 23)
Số tham khảo916
Quốc giaNam Phi
VùngDanh sách di sản thế giới tại châu Phi

Đảo Robben (tiếng Afrikaans: Robbeneiland) là một đảo trong vịnh Bàn, cách bờ biển Bloubergstrand, Cape Town 6,9 kilômét (4,3 mi) về phía tây. Tên của hòn đảo trong tiếng Hà Lan có nghĩa là "đảo hải cẩu". Đảo Robben nhìn từ trên không có hình bầu dục, dài 3,3 km (2,1 mi) theo chiều bắc nam, và rộng 1,9 km (1,2 mi), với diện tích 5,08 km2 (1,96 dặm vuông Anh).[2] Hòn đảo bằng phẳng và chỉ cao trên mặt nước biển vài mét, do hoạt động xói mòn từ thời cổ đại. Người đã từng dành giải Nobel và là cố tổng thống Nam Phi Nelson Mandela đã bị bắt và giam cầm tại đây 18 năm trong tổng số 27 năm sống ở tù trước khi chế độ Apartheid sụp đổ. Tính tới nay, ba trong số các cựu tù nhân trên đảo Robben đã trở thành Tổng thống Nam Phi là Nelson Mandela, Kgalema Motlanthe,[3]Jacob Zuma.

Đảo Robben là một Di sản Quốc gia Nam Phi đồng thời cũng là một Di sản thế giới của UNESCO từ năm 1999.[4][5]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ cuối thế kỷ 17, đảo Robben đã được sử dụng chủ yếu như là nơi cách ly các tù nhân chính trị. Những người định cư Hà Lan là những người đầu tiên sử dụng đảo Robben làm nhà tù. Tù nhân đầu tiên bị giam cầm ở đây có lẽ là Autshumato, nhà lãnh đạo của Strandloper vào giữa thế kỷ 17. Trong số những cư dân thường trú đầu tiên của nó, có các nhà lãnh đạo chính trị từ nhiều thuộc địa khác nhau của Hà Lan, bao gồm cả Indonesia, và người lãnh đạo cuộc Binh biến nô lệ trên con tàu Meermin.

Sau khi Hải quân Hoàng gia Anh giành chiến thắng sau Trận Vịnh Saldanha năm 1781, một con tàu đã ra ngoài khơi để gặp tàu hải quân Anh. Trên tàu là những vị vua của Ternate, Tidore và các hoàng tử. Người Hà Lan từ lâu đã giữ họ trên đảo "Isle Robin", nhưng sau đó đã chuyển họ đến Vịnh Saldanha.[6]

Vào năm 1806, người đánh bắt cá voi Scotland John Murray đã mở một trạm săn cá voi tại vịnh được che chắn trên bờ biển phía đông bắc của hòn đảo, được biết đến với tên vịnh Murray, liền với cảng ngày nay có tên là Cảng Vịnh Murray được xây dựng từ 1939–40.[7][8]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d “Main Place Robben Island”. Census 2011.
  2. ^ “Avian Demography Unit: Robben Island”. Department of Biological Sciences, University of Cape Town. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2018.
  3. ^ “New S. Africa president sworn in”. BBC News. ngày 25 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008.
  4. ^ “9/2/018/0004 - Robben Island, Table Bay”. South African Heritage Resources Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2013.
  5. ^ “Robben Island”. UNESCO. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2011.
  6. ^ The New Annual Register, Or General Repository of History..., (October 1781), Vol. 2, p.90.
  7. ^ Peires, Jeffrey B. (1989). The Dead Will Arise: Nongqawuse and the Great Xhosa Cattle Killing Movement of 1856–7. Indiana University Press. tr. 301. ISBN 9780253205247.
  8. ^ Deacon, Harriet biên tập (1996). The Island: A History of Robben Island, 1488–1990. New Africa Books. tr. 4–5. ISBN 9780864862990.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]