Bệnh giun đũa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ascariasis
Ascarislumbricoides
Chuyên khoabệnh truyền nhiễm, helminthologist
ICD-10B77
ICD-9-CM127.0
OMIM604291
DiseasesDB934
MedlinePlus000628
eMedicinearticle/212510
MeSHD001196

Bệnh giun đũa do giun tròn ký sinh (Ascarislumbricoides) gây ra.[1] Hơn 85% ca nhiễm bệnh, đặc biệt nhiễm ít giun, không thể hiện triệu chứng.[1] Các triệu chứng tăng theo số lượng giun trong cơ thể và có thể bao gồm khó thở và sốt vào thời kỳ đầu nhiễm bệnh.[1] Theo sau những triệu chứng này có thể là trướng bụng, đau bụng và tiêu chảy.[1] Trẻ em hay bị ảnh hưởng nhất, và trong độ tuổi này, bệnh có thể làm trẻ tăng cân ít, suy dinh dưỡng và gặp phải các vấn đề trong học tập.[1][2][3]

Bệnh lây qua đồ ăn, thức uống bị nhiễm trứng giun đũa có trong phân.[2] Trứng nở trong ruột, đào xuyên qua thành ruột, và di chuyển tớiphổi thông qua máu.[2] Tại đây, chúng chui vào hốc phổi đi ngược lên khí quản,nơi chúng bị ho ra và nuốt vào.[2] Ấu trùng sau đó chui xuống dạ dày lần nữa, đi vào ruột nơi chúng phát triển thành giun trưởng thành.[2]

Phòng bệnh và chữa trị[sửa | sửa mã nguồn]

Có thể phòng bệnh bằng cách tăng cường vệ sinh, bao gồm cải thiện nhà vệ sinh và xử lý phân một cách khoa học.[1][4] Rửa tay với xà phòng có thể là một biện pháp bảo vệ.[5] Ở những vùng có hơn 20% dân số nhiễm giun, nên điều trị cho mọi người thường xuyên.[1] Việc tái nhiễm giun là phổ biến.[2][6] Không có vaccine phòng bệnh này.[2] Các biện pháp chữa trị do Tổ chức y tế thế giớiđề xuất bao gồm các loại thuốc albendazole, mebendazole, levamisole hoặc pyrantel pamoate.[2] Các thuốc có tác dụng khác bao gồm tribendimidinenitazoxanide.[2]

Dịch tễ học[sửa | sửa mã nguồn]

Khoảng 0.8 đến 1.2 tỷ dân số thế giới nhiễm giun đũa, trong đó những vùng nhiễm nặng nhất là cận Sahara châu Phi, Mỹ Latinh,và châu Á.[1][7][8] Do đó, bệnh giun đũa là dạng phổ biến nhất của bệnh giun sán lây truyền qua đất.[7] Vào năm 2010, bệnh này gây ra khoảng 2700 ca tử vong, thấp hơn so với 3400 ca vào năm 1990.[9] Loại khác của Bệnh giun đũa lây nhiễm trên lợn.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i Dold, C; Holland, CV (tháng 7 năm 2011). “Ascaris and ascariasis”. Microbes and infection / InstitutPasteur. 13 (7): 632–7. doi:10.1016/j.micinf.2010.09.012. PMID 20934531.
  2. ^ a b c d e f g h i Hagel, I; Giusti, T (tháng 10 năm 2010). “Ascarislumbricoides: an overview of therapeutic targets”. Infectious disorders drug targets. 10 (5): 349–67. doi:10.2174/187152610793180876. PMID 20701574.
  3. ^ “Soil-transmitted helminth infections Fact sheet N°366”. World Health Organization. tháng 6 năm 2013.
  4. ^ Ziegelbauer, K; Speich, B; Mäusezahl, D; Bos, R; Keiser, J; Utzinger, J (tháng 1 năm 2012). “Effect of sanitation on soil-transmitted helminth infection: systematic review and meta-analysis”. PLoSmedicine. 9 (1): e1001162. doi:10.1371/journal.pmed.1001162. PMC 3265535. PMID 22291577.
  5. ^ Fung, IC; Cairncross, S (tháng 3 năm 2009). “Ascariasis and handwashing”. Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene. 103 (3): 215–22. doi:10.1016/j.trstmh.2008.08.003. PMID 18789465.
  6. ^ Jia, TW; Melville, S; Utzinger, J; King, CH; Zhou, XN (2012). “Soil-transmitted helminth reinfection after drug treatment: a systematic review and meta-analysis”. PLoS neglected tropical diseases. 6 (5): e1621. doi:10.1371/journal.pntd.0001621. PMC 3348161. PMID 22590656.
  7. ^ a b Keiser, J; Utzinger, J (2010). “The drugs we have and the drugs we need against major helminthinfections”. Advances in parasitology. 73: 197–230. doi:10.1016/s0065-308x(10)73008-6. PMID 20627144.
  8. ^ Fenwick, A (tháng 3 năm 2012). “The global burden of neglected tropical diseases”. Public health. 126 (3): 233–6. doi:10.1016/j.puhe.2011.11.015. PMID 22325616.
  9. ^ Lozano, R (15 tháng 12 năm 2012). “Global and regional mortality from 235 causes of death for 20 age groups in 1990 and 2010: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010”. Lancet. 380 (9859): 2095–128. doi:10.1016/S0140-6736(12)61728-0. PMID 23245604.