Bánh bao

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bánh bao
Quầy bánh bao bán trong một khu chợ ở Thành Đô, Trung Quốc
Tên khácBao, humbow, nunu, pau
Loạibánh
Xuất xứ Trung Quốc
Vùng hoặc bangTrung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Đông Nam Á và những khu phố có đông người Hoa sinh sống
Sáng tạo bởitừ thời Gia Cát Lượng
Biến thểMàn thầu
Bánh bao
"Bánh bao" viết bằng chữ Hán
Tiếng Trung包子

Bánh bao (chữ Hán: 包子; bính âm: bāozi, Hán Việt: bao tử) là một loại bánh làm bằng bột mì có nhân và hấp chín, chiên hoặc nướng trước khi ăn trong ẩm thực Trung Hoa. Nó khá giống với loại bánh màn thầu truyền thống cũng của Trung Quốc nhưng hai loại bánh này hoàn toàn không liên quan gì đến nhau. Nhân bánh bao được làm bằng thịt hoặc rau củ tùy theo vùng miền khác nhau ở Trung Quốc .

Bánh bao thường được dùng trong bất cứ bữa ăn nào trong ngày trong văn hóa Trung Hoa nhưng thường được người Trung Quốc dùng làm bữa sáng là nhiều nhất.

Lịch sử món ăn[sửa | sửa mã nguồn]

Món bánh bao được Gia Cát Lượng phát minh ra vào thời kỳ Tam Quốc sau chuỗi sự kiện “thất cầm thất thả” Nam Man Vương Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng đã hoàn toàn thu phục được vị Man Vương này. Tuy nhiên trên đường quay về Thành Đô, quân đội của nhà Thục đã không thể vượt qua được sông Lô Thủy, vì đây là một con sông lớn, nước sông chảy xiết. Sau đó Mạch Hoạch đã cho Gia Cát Lượng biết rằng, muốn vượt sông phải có vật hiến tế ném xuống sông, đó là thủ cấp của 50 nam giới. Tuy nhiên Gia Cát Lượng lại không muốn mất đi bất kỳ tính mạng nào nữa, sau đó ông đã nghĩ ra một loại bánh có vỏ làm bằng bột gạo và tròn tròn như đầu người thu nhỏ, bên trong độn nhân thịt, và sau đó ném xuống sông. Ông gọi chúng là “bánh đầu người Mọi” (Man đầu)[1]. Bánh "Man đầu" bây giờ được người Việt Nam gọi bằng bánh bao. Món bánh bao hiện nay được rất nhiều người ở các quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản (gọi bằng Nikuman), Hàn Quốc, Thái Lan (gọi là salapao), Myanmar (gọi là Pauk-si) ưa thích.

Các loại bánh bao phổ thông[sửa | sửa mã nguồn]

Sự phổ biến của bánh bao trên toàn thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Siopao - bánh bao kiểu Philippines

Món bánh bao cũng trở nên phổ biến ở khắp các khu vực Đông Nam Á do người Hoa di cư.

Do lịch sử lâu đời. Cộng đồng người Hoa hải ngoại ở Malaysia, người Mã Lai đã sử dụng những chiếc bánh bao này biến tấu lại thành khẩu vị của riêng họ. Một dạng bánh bao đặc biệt của người Mã Lai (được gọi là "pau" trong tiếng Mã Lai) được làm từ cà ri khoai tây, cà ri gà hoặc cà ri bò tương tự như nhân của món cà ri Mã Lai. Một số biến thể có thêm trứng cút ở giữa, thêm vào đó là cà ri. Do tín ngưỡng Hồi giáo của hầu hết người Mã Lai, những chiếc bánh này là halal và không chứa thịt lợn. Người ta có thể tìm thấy các quầy hàng Mã Lai bán bánh bên đường, tại pasar malams (chợ đêm), trạm dừng nghỉ trên đường cao tốc và pasar Ramadans (chợ thực phẩm Ramadan). Tương tự, ở Indonesia, món ăn này đã được tiếp nhận vào ẩm thực Indonesia thông qua sự hội nhập của văn hóa Trung Quốc. Nó đã được sử dụng thông qua tên Hokkien của bakpau. Ngoài nhân thịt, các biến thể địa phương bao gồm nhân ngọt như: sô cô la, khoai lang và mứt cam. Do ảnh hưởng thuộc địa từ Indonesia, tại các siêu thị ở Hà Lan, người ta có thể dễ dàng tìm thấy "bapao" hoặc "bakpao" đông lạnh được bọc trong nhựa, làm sẵn để hâm nóng bên trong lò vi sóng. Nhân phổ biến nhất là thịt gà, mặc dù cũng có các biến thể thịt lợn và thịt bò. Thực phẩm này được phân loại theo văn hóa là một món ăn nhanh hoặc một món ăn nhanh. Hình thức tươi mới của món bún hấp này không được xuất hiện bên ngoài cộng đồng người Hoa trong nước. Ở Philippines, phiên bản bánh bao của họ được gọi là "siopao" do những người nhập cư từ Trung Quốc (Sangleys) mang đến trước thời thuộc địa Tây Ban Nha với nhân bao gồm thịt viên, Adobo kiểu Philippines, cá ngừ và thịt lợn, đôi khi là sô cô la và phô mai.

Tại Thái Lan, bánh bao được biết với tên gọi là "salapao (tiếng Thái: ซาลาเปา) còn tại Campuchia bánh bao được gọi là numbao trong tiếng Khmer. Đây là một món ăn nhẹ phổ biến ở Campuchia và thường được tự làm hoặc bán ở các chợ đường phố.

Một xe bán bánh bao tại khu phố người Hoa ở Bangkok, Thái Lan

Người Mông Cổ có một loại bánh bao với tên gọi là buuz. Nhân bánh được làm từ thịt cừu băm nhuyễn hay thịt bò được trộn cùng gia vị như hành tây, tỏi cùng một số thảo mộc khác. Người ta sử dụng thịt cừu là nguyên liệu chính, thay vì thịt heo hay hải sản. Loại thịt cừu này được lựa chọn tươi ngon để lúc hấp bánh tỏa mùi thơm. Nhân được trộn đều với gia vị rồi nhào vào lớp vỏ nhỏ đã được cán mỏng, nhân bánh Buuz đầy được nhồi đầy vào vỏ sau khi hấp chín. Vỏ bánh được làm từ bột, nhào kỹ theo kỹ thuật Mông Cổ rồi cán dẹp thành từng phần nhỏ. Khi ăn bánh Buuz, nên ăn lúc còn nóng là ngon và thơm nhất. Bánh Buuz thường được ăn với nước xốt cà chua.

Ở Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Bánh bao chay

Bánh bao tuy xuất phát từ Trung Hoa nhưng đã biến thể khi du nhập Việt Nam. Bánh bao của người Việt thường nhỏ hơn bánh bao Trung Quốc. Thành phần nhân cũng khác, thông thường thì có thịt heo xay, mộc nhĩ, nấm hương, miến, lạp xưởng, trứng chim cút hoặc trứng ; đôi khi cũng sử dụng trứng muối. Ngoài ra, hiện nay bánh bao chỉ cũng là một món ăn bình dân và ngon. Với người Việt Nam, bánh bao là món điểm tâm sáng rất tiện lợi. Người ta có thể mua bánh bao ở nhiều nơi trên các vỉa hè, chợ hay quán dọc đường. Vẻ ngoài, bánh bao của người Việt có nhiều nét tương đối giống với bánh bao Trung Quốc nhưng kích cỡ nhỏ hơn và phần nhân thì khác.Thông thường thì phần nhân của bánh sẽ được làm từ thịt heo cả nạc lẫn mỡ xay nhỏ, nấm mèo, miến và còn có cả thêm trứng cút.

Thư viện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “8 phát minh kinh điển của Khổng Minh Gia Cát Lượng”. Dân Trí.