Cao Ly Hi Tông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cao Ly Hi Tông
고려 희종
Vua Cao Ly
Tại vị1204 – 1211
Tiền nhiệmCao Ly Thần Tông
Kế nhiệmCao Ly Khang Tông
Thông tin chung
Sinh21 tháng 6 năm 1181
Mất31 tháng 8 năm 1237
(56-57 tuổi)
An tángThạc lăng
Hậu phixem văn bản
Hậu duệxem văn bản
Thụy hiệu
Nhân Mục Thành Hiếu Đại Vương
(仁穆成孝大王)
Miếu hiệu
Hi Tông hay Trinh Tông
Thân phụCao Ly Thần Tông
Thân mẫuTuyên Tĩnh Vương hậu
Tôn giáoPhật giáo
Cao Ly Hi Tông
Hangul
희종
Hanja
熙宗
Romaja quốc ngữHuijong
McCune–ReischauerHŭijong
Hán-ViệtHi Tông

Cao Ly Hi Tông (Hangul: 고려 희종; chữ Hán: 高麗 熙宗; 21 tháng 6 năm 1181 – 31 tháng 8 năm 1237, trị vì 1204 – 1211) là quốc vương thứ 21 của vương triều Cao Ly. Ông là vương tử trưởng của Cao Ly Thần TôngTuyên Tĩnh Vương hậu. Ông có tên húy là Vương Anh (왕영, 王韺), Vương Đức (왕덕; 王悳), tự là Bất Bi (불피; 不陂). Ông ban đầu được tôn miếu hiệuTrinh Tông (정종; 貞宗), về sau mới cải thành Hi Tông.

Khi Thần Tông lên ngai vàng đã phong ông làm Thái tử, ông đã nổi dậy chống lại Thôi Trung Hiến (최충헌), lãnh đạo quân binh lúc bấy giờ, và đệ của ông ta là Thôi Trung Túy (최충수). Hi Tông có lòng thù hận lớn đối với họ sau khi Trung Túy buộc thái tử phi phải thoái vị để ông ta đưa con gái của mình thế chỗ. Trong cuộc nổi dậy, Hi Tông đã đạo diễn một kế hoạch để khiến cho Trung Hiến giết chết Trung Túy, song Trung Hiến đã biết về điều này. Hi Tông đã buộc phải cầu xin sự tha thứ và hạ mình trước người mà ông khao khát trả thù.

Khi vua Thần Tông ngã bệnh vào năm 1204, ông đã thoái vị để đưa Hi Tông lên ngôi. Hi Tông biết rằng mình phải tạo cho Thôi Trung Hiến một cảm giác sai về bảo an nếu muốn có cơ hội giết chết ông ta, và vị vua mới đã phong cho người này một tước hiệu phần lớn được trao trong thời kỳ quan binh nắm quyền, và thậm chí là phong thụy hiệu cho cha của Trung Hiến. Hi Tông cũng ban tên cho Trung Hiến, vinh dự lớn nhất vào thời điểm đó, và thường chỉ dành cho thân nhân của quốc vương. Với hai tước hiệu này, Thôi Trung Hiến có quyền lực chính trị gần ngang bằng với bản thân vua. Ôn đã sử dụng nó để đè bẹp 3 cuộc nổi dậy, một do các nông nô của ông lãnh đạo, một của dân quân Tân La, và một do cháu trai của ông lãnh đạo.

Thôi Trung Hiến trở nên an tâm hơn với các vị trí mới, trong khi đó Hi Tông bắt đầu chuẩn bị. Cáo bệnh, ông đã đánh lừa được Thôi Trung Hiến vào cung một mình mà không có cận binh bên cạnh. Khi ông ta đến, Hi Tông cho tiến hành một cuộc binh biến. Tuy nhiên, sự việc đã thất bại và Thôi Trung Hiến đã trốn thoát. Giận dữ, ông đưa Hi Tông đến đảo Tử Yên (紫燕島).

Hi Tông mất khi được 56 tuổi, truy thụy là Nhân Mục Thành Hiếu Đại Vương (仁穆成孝大王), táng tại Thạc lăng (碩陵). Anh họ của ông kế vị ngai vàng, là vua Cao Ly Khang Tông.

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Thọ An Cung chúaDiên Hi Cung chúa đều là con gái của Cao Ly Minh Tông, gọi Cao Ly Thần Tông là chú.
  2. ^ Con trai của Hiếu Hoài Công chúa (효회공주) và là cháu ngoại của Cao Ly Thần Tông