Chủ nghĩa chuyên chế

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Chính thể chuyên chế)
Francisco Franco, caudillo của Tây Ban Nha từ 1936 tới 1975, lãnh đạo một chế độ chuyên chế mà tồn tại đến khi ông ta chết.

Chủ nghĩa chuyên chế là một hình thức chính phủ có đặc điểm là từ chối sự đa nguyên về chính trị, sử dụng quyền lực tập trung mạnh để duy trì nguyên trạng chính trị, và cắt giảm pháp quyền, phân lập quyền lựcbầu cử dân chủ.[1] Các nhà khoa học chính trị đã tạo ra nhiều mô hình mô tả những biến thể của các hình thức chính phủ chuyên chế.[1] Các chế độ chuyên chế có thể là chuyên quyền hoặc đầu sỏ và có thể dựa trên sự cai trị của một đảng hoặc quân đội.[2][3]

Trong một tác phẩm có ảnh hưởng vào năm 1964,[4] nhà khoa học chính trị Juan Linz đã định nghĩa chủ nghĩa chuyên chế có bốn đặc điểm:

  1. Đa nguyên chính trị hạn chế, được thực hiện với những ràng buộc đối với cơ quan lập pháp, các đảng chính trịcác nhóm lợi ích .
  2. Tính chính danh chính trị dựa trên sự hài lòng về mặt cảm xúc và việc xác định chế độ như một cái ác cần thiết để chống lại "các vấn đề xã hội dễ nhận biết, chẳng hạn như sự kém phát triển hoặc cuộc nổi dậy."
  3. Hạn chế tối đa việc huy động chính trị và đàn áp các hoạt động chống đối chế độ.
  4. Quyền hành pháp không được xác định rõ ràng, thường mơ hồ và thay đổi để mở rộng quyền lực của các nhà lãnh đạo.[5][6]

Theo định nghĩa hẹp, một chính phủ chuyên chế thiếu các cuộc bầu cử trực tiếp tự do và cạnh tranh để bầu người vào các cơ quan lập pháp, thiếu các cuộc bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp tự do và cạnh tranh cho các chức vụ hành pháp, hoặc cả hai.[7] Theo định nghĩa rộng, các nhà nước chuyên chế bao gồm các quốc gia thiếu các quyền tự do dân sự như tự do tôn giáo, hoặc những quốc gia mà chính phủ và phe đối lập không thay nhau nắm quyền ít nhất một lần sau các cuộc bầu cử tự do.[8] Các nhà nước chuyên chế có thể chứa các thể chế dân chủ trên mặt danh nghĩa, chẳng hạn như các đảng chính trị, cơ quan lập pháp và những cuộc bầu cử được quản lý để duy trì sự cai trị độc đoán và có thể có các cuộc bầu cử gian lận, không cạnh tranh.[9] Kể từ năm 1946, tỷ lệ của các nhà nước chuyên chế trong hệ thống chính trị quốc tế tăng lên cho đến giữa những năm 1970 nhưng giảm từ đó cho đến năm 2000.[10]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Furio Cerutti (2017). Conceptualizing Politics: An Introduction to Political Philosophy. Routledge. tr. 17. Các nhà khoa học chính trị đã vạch ra những kiểu hình của chủ nghĩa chuyên chế, nhưng từ đó không dễ rút ra một định nghĩa chung được chấp nhận; có vẻ như các đặc điểm chính của nó là không chấp nhận tranh cãi và đa nguyên như những yếu tố bình thường của chính trị, ý chí bảo tồn nguyên trạng và ngăn chặn sự thay đổi bằng cách giữ mọi động thái chính trị dưới sự kiểm soát chặt chẽ của một quyền lực trung ương mạnh mẽ, và cuối cùng là sự xói mòn của sự pháp quyền, sự phân chia độc lập quyền lực, và các thủ tục bỏ phiếu dân chủ.
  2. ^ Natasha M. Ezrow & Erica Frantz (2011). Dictators and Dictatorships: Understanding Authoritarian Regimes and Their Leaders. Continuum. tr. 17.
  3. ^ Brian Lai; Dan Slater (2006). “Institutions of the Offensive: Domestic Sources of Dispute Initiation in Authoritarian Regimes, 1950–1992”. American Journal of Political Science. 50 (1): 113–126. doi:10.1111/j.1540-5907.2006.00173.x. JSTOR 3694260.
  4. ^ Richard Shorten, Modernism and Totalitarianism: Rethinking the Intellectual Sources of Nazism and Stalinism, 1945 to the Present Lưu trữ 2020-01-09 tại Wayback Machine (Palgrave Macmillan, 2012), p. 256 (note 67): "Trong một thời gian dài định nghĩa chi tiết của chủ nghĩa chuyên chế là của Juan J. Linz."
  5. ^ Juan J. Linz, "An Authoritarian Regime: The Case of Spain," in Erik Allardt and Yrjö Littunen, eds., Cleavages, Ideologies, and Party Systems: Contributions to Comparative Political Sociology (Helsinki: Transactions of the Westermarck Society), pp. 291–342. Reprinted in Erik Allardt & Stine Rokkan, eds., Mas Politics: Studies in Political Sociology (New York: Free Press, 1970), pp. 251–283, 374–381.[thiếu ISBN]
  6. ^ Gretchen Casper, Fragile Democracies: The Legacies of Authoritarian Rule Lưu trữ 2020-01-09 tại Wayback Machine (University of Pittsburgh Press, 1995), pp. 40–50 (citing Linz 1964).[thiếu ISBN]
  7. ^ Milan W. Svolik (2012). The Politics of Authoritarian Rule. Cambridge University Press. tr. 22–23. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2019. Tôi tuân theo Przeworski et al. (2000), Boix (2003), và Cheibub et al. (2010) trong việc định nghĩa chế độ độc tài là một quốc gia độc lập không đáp ứng được ít nhất một trong hai tiêu chí sau về dân chủ: (1) bầu cử lập pháp tự do và cạnh tranh và (2) lãnh đạo hành pháp được bầu cử trực tiếp trong những cuộc bầu cử tổng thống tự do và cạnh tranh hoặc gián tiếp bởi cơ quan lập pháp trong hệ thống nghị viện. Xuyên suốt cuốn sách này, tôi sử dụng các thuật ngữ chế độ chuyên chếchế độ độc tài thay thế cho nhau và đề cập đến những người đứng đầu các chính phủ của các chế độ này đơn giản là kẻ độc tài hoặc những nhà lãnh đạo chuyên chế, bất kể danh hiệu chính thức của họ là gì.
  8. ^ Milan W. Svolik (2012). The Politics of Authoritarian Rule. Cambridge University Press. tr. 20. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2019. Các tiêu chí khắt khe hơn có thể yêu cầu việc các chính phủ tôn trọng một số quyền tự do dân sự—chẳng hạn như quyền tự do tôn giáo (Schmitter và Karl 1991; Zakaria 1997)—hoặc việc chính phủ đương nhiệm và phe đối lập luân phiên nắm quyền ít nhất một lần sau cuộc bầu cử dường như tự do lần đầu tiên (Huntington 1993; Przeworski et al. 2000; Cheibib et al. 2010).
  9. ^ Milan W. Svolik (2012). The Politics of Authoritarian Rule. Cambridge University Press. tr. 8, 12, 22, 25, 88, 117. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2019.
  10. ^ Milan W. Svolik (2012). The Politics of Authoritarian Rule. Cambridge University Press. tr. 25. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2019.