Chiến tranh Đại Việt – Lan Xang (1478–1480)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Đại Việt – Lan Xang
Thời gian1467 – 1480
Địa điểm
Kết quả

Đại Việt chiến thắng:

  • Lan Xang, Lanna, và Bồn Man bị phá hủy
  • Quan hệ Lan Xang và Đại Việt xấu đi
Tham chiến
Nhà Hậu Lê
Xa Lý
Lan Xang
Lan Na[1]
Muang Phuan
Chỉ huy và lãnh đạo
Lê Thánh Tông
Lê Thọ Vực
Trịnh Công Lộ
Lê Lộng
Lê Nhân Hiếu
Lê Đình Ngạn
Lê Niệm
Lê Hy Cát
Xaiyna Chakhaphat
Chao Chienglaw 
Thengkham
Norasing 
Noranarai 
Noradet 
Norara 
Muen Luang
Phya Kwatepa 
Muen Kwatepa 
Muen Neua 
Muen Bun 
Luan 
Lực lượng
23-50 vạn quân 20-30 vạn quân
Thương vong và tổn thất
không rõ không rõ

Chiến tranh Đại Việt – Lan Xang là cuộc chiến giữa nhà Hậu Lê nước Đại Việt với Lan Xang (Lào). Mục đích phát động của Đại Việt là bình định vương quốc Bồn Man và ngăn chặn sự quấy nhiễu của quân Lan Xang tại biên giới phía tây. Cuộc xâm lược cũng là sự tiếp nối của sự bành trướng của vua Lê Thánh Tông, qua đó Đại Việt đã chinh phục vương quốc Champa vào năm 1471. Cuộc chiến xuất phát từ những trận chiến lẻ tẻ trong suốt giai đoạn cai trị của Lê Thánh Tông, khiến ông quyết định mở cuộc tiến công lớn vào lãnh thổ Lan Xang (Lão Qua). Cuộc xung đột cuối cùng kéo dài khoảng 5 năm và ngày càng gia tăng đe dọa biên giới Vân Nam và làm dấy lên những lo ngại của nhà Minh . Các loại vũ khí dùng thuốc súng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc xung đột, tạo điều kiện cho sự viễn chinh của Đại Việt. Thành công sớm trong cuộc chiến cho phép Đại Việt chiếm được cố đô Luang Prabang của Lan Xang và phá hủy thành phố Xiang Khouang của xứ Bồn Man. Cuối cùng sau khi đã nắm chắc được Bồn Man cũng như dưới sức ép của nhà Minh và sự viện trợ của Lan Na, Lê Thánh Tông sai rút quân vào năm 1480.

Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Quan hệ giữa Đại Việt và Lan Xang vốn không tốt kể từ đầu thế kỷ 14. Đại Việt thời nhà Trần và Lan Xang cũng có quan hệ không tốt đẹp. Hai bên đã có giao tranh ở khu vực biên giới. Quan hệ giữa Lan Xang (Ai Lao hay Lão Qua) với triều đại sau của Đại Việt là nhà Hậu Lê càng không mấy hòa hảo. Khi Bình Định Vương của nhà Hậu Lê khởi nghĩa, Ai Lao cho Mãn Sát đem 30.000 quân và 100 thớt voi sang phối hợp với quân đội nhà Minh đánh úp. Trong trận đánh ở Sách Thủy, cháu của Lê LợiLê Thạch tử trận. Sau đó, Lan Xang còn hay quấy nhiễu biên giới Đại Việt. Ngược lại, khi xây dựng chính quyền, Đại Việt còn sáp nhập một số mường của Lan Xang vào lãnh thổ của mình, đồng thời bắt Lan Xang thần phục và phải triều cống cho Đại Việt (tuy không thành lệ).

Theo sử Việt, đất Bồn Man (Lan Xang gọi là Muang Phuan) đã xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông, được vua Nhân Tông nhập vào Đại Việt thành châu Quy Hợp thuộc xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Lư Cầm đời đời làm Phụ đạo.

Đến giữa thế kỷ 15, quan hệ hai bên lại xấu đi. Lan Xang mang quân đánh phá biên giới Đại Việt và xung đột bùng phát.

Sau khi xung đột tạm lắng khoảng 10 năm, tình hình lại căng thẳng trở lại. Theo sử Lào, năm 1478, một viên tướng của vua Lan Xang Xaiyna Chakhaphat bắt được một con voi trắng và dâng lên vua. Được tin, vua Đại Việt sai sứ sang xin lông voi trắng. Chao Chienglaw, thái tử Lan Xang, luôn ghét Đại Việt vì lý do này khác, liền thay vì tặng lông voi, lại sai nhét phân voi vào một chiếc rương và gửi cho vua Đại Việt. Vua Đại Việt nổi giận cất binh đánh Lan Xang.[2] Tuy nhiên, cần phải xét rằng trong lãnh thổ Đại Việt khi đó không phải không có voi trắng, vì Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép về việc bắt voi trắng vào các năm 1068, 1418,... và tượng binh là một binh chủng thường trực của quân đội Đại Việt từ thời Trưng Vương.

Năm 1478, Cầm Công (hay Lư Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man) liên kết với Lão Qua (Lan Xang) đem binh quấy nhiễu (châu Quy Hợp) khu vực phía tây xứ Nghệ của Đại Việt. Vua Lê quyết định cất quân sang đánh Lan Xang.[3]

Văn bản lịch sử gần sự kiện này nhất là Đại Việt sử ký toàn thư, bộ chính sử do sử thần nhà Hậu Lê soạn, có ghi:[4]

Lực lượng và kế hoạch của hai bên[sửa | sửa mã nguồn]

Sử Lào kể rằng triều đình Đại Việt đã phái 55 vạn quân dưới sự chỉ huy của 4.000 tướng lĩnh sang đánh Lan Xang. Chao Chienglaw chỉ huy quân Lan Xang kháng cự. Ông có 20 vạn quân và 2 ngàn thớt voi, 6 vị dũng tướng gồm Norasing, Noranarai, Noradet, Norara, Muen Luang và Phya Kwatepa.[2]

Còn sử liệu Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư sau khi chép lại lời chiếu đánh Bồn Man của vua Lê Thánh Tông trong đó có đoạn: "Đặc sai Thái uý Sùng quận công Lê Thọ Vực, Đoan Vũ hầu Trịnh Công Lộ, Diên Hà bá Lê Hy Cát đeo ấn tướng quân, trao cho 20 vạn quân tinh nhuệ, hẹn đến tháng 8 năm nay, chia đường tiến quân, kể tội đến đánh. Tập hợp binh sĩ như hổ như beo; gióng trống hành quân thẳng sào huyệt giặc. Để dân cõi xa được chăn chiếu ấm êm, khiến đảng hung ác phải kình nghê phanh xác. Lừng lẫy danh thiêng chói lọi, theo trời nêu uy thế chẻ tre, liên tiếp tin vui rạng rỡ, hẹn ngày tâu thắng trận trở về. Báo cáo trong ngoài thảy đều được biết."[4] Trong chiếu đánh Ai Lao ghi: "Đã định ngày 28 tháng 7 này, đặc mệnh tướng thần, chia đường tiến đánh. Chinh Tây tướng quân Lê Thọ Vực là tiên phong, đi đường chính chỉ huy các quân các doanh du kích, trước hãy giết tên cháu hiếu của giặc Bồn Man để chặt vây cánh nó, rồi chiếm ngay đất hiểm yếu là xứ Trấn Ninh mà đánh vào lòng giặc. Chinh Di tướng quân Trịnh Công Lộ chỉ huy các doanh quân thổ binh từ đường An Tây tiến vào để chiếm giữ mạn thượng lưu. Trấn Lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn chỉ huy các doanh quân hoành dã từ đường Ngọc Ma đánh tới để cắt ngăn đường giặc chạy. Du kỵ phó tướng quân là bọn Lê Lộng đi đường châu Thuận Mỗi để bóp cổ chẹn lưng. Thảo tặc phó tướng quân là bọn Lê Nhân Hiếu theo lối phủ Thanh Đô để đánh chỗ sơ hở... Nay trẫm tự cầm cờ mao trắng điều khiển, tự cầm lưỡi búa vàng chỉ huy."[4] Như vậy, quân Đại Việt gồm 5 đạo quân (khi chính thức xuất quân ngày 23 tháng 8 âm năm Mậu Tuất (1478) là 18 vạn) tiến vào từ 5 ngả:

Đầu năm Kỷ Hợi (1479) vua Lê Thánh Tông sai Lê Niệm mang 30 vạn quân tăng viện đánh Bồn Man.

Cuốn History of Laos (including the history of Lannathai, Chiengmai) của M. L. Manlch, phần viết về vua Tilokarat (1441-1485) của Lan Na cung cấp một thông tin rằng vua Tilokarat đã đẩy lui quân Việt Nam tấn công vào vùng đất phía Đông của nước ông, nơi mà nay là tỉnh Nan của Thái Lan. Có thể sự kiện này liên quan đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Lan Xang. Nhưng không rõ việc quân đội Đại Việt tấn công Nan là do truy đuổi quân Lan Xang chạy tới đó hay là chủ ý tấn công Lan Na.[12] Cuốn A Short History of Laos của Grant Evans cho biết khi nhà Lê tấn công Lan Xang, một chúa xứ Nan đã giúp Lan Xang chống lại.[13] Đại Việt sử ký toàn thư không thấy nhắc đến việc quân đội của Lê Thánh Tông tấn công nước nào khác ngoài Bồn Man và Lão Qua (tức Lan Xang) trong cuộc chiến tranh này.

Minh thực lục, cuốn sử của Trung Quốc ghi tổng số quân Đại Việt tham chiến là 23 vạn, trong đó có 8 vạn phu mở đường và chở lương.[14]

Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]

Xung đột biên giới[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 1467, quân Lan Xang đánh chiếm động Cự Lộng, quấy nhiễu các vùng biên giới. Lê Thánh Tông sai Hành tổng binh Khuất Đả đem 1.000 quân, cùng với Đồng tổng binh Nguyễn Động và Tán lý quân vụ Nghiêm Nhân Thọ họp với quân đồn trú trấn Gia Hưng lên đánh. Khi đến nơi, quân Lan Xang đã rút, Khuất Đả bèn tâu là Lan Xang xin trả lại đất đã chiếm. Lê Thánh Tông bèn cho Đào Viện thay chức Đốc tướng.

Tuy nhiên, đến tháng 3, Khuất Đả họp quân ở Mộc Châu (Gia Hưng), sai đem 300 thổ binh đóng quân ở sách Câu Lộng (Mã Giang), sai Lê Miễn đêm quân vệ Gia Hưng đóng quân ở Khâu Chúc, hợp với quân hai châu Mường ViệtMường Muỗi, hư trương thanh thế khiến quân Lan Xang tan vỡ. Tướng Lan Xang (Ai Lao) là Đạo Đồng ra hàng. Khuất Đả sai Kinh lược Mộc Châu họ Xa và Cầm La canh giữ đất, sửa cửa ải. Vua Lê Thánh Tông ban đầu định sai giết, nhưng sau khi nghe lời Đinh Liệt thì vẫn không nguôi giận, sai giam vào ngục.

Sau đó, Hiệu úy Hoàng Liễn đánh trận cuối ở Khâu Lạo. Quân Lan Xang thiệt hại 3.000 người. Đến đây, xung đột tạm ngưng. Năm 1471, Lan Xang sai sứ đến Thăng Long. Khi ấy vua Lê Thánh Tông đang đi đánh Chiêm Thành, phải di chuyển vào hành điện tại cửa Tư Dung. Khi vua Lê trở về mới gặp. Uy thế của Đại Việt khi đó lên cao. Năm 1474, Lan Xang phải sang cống nộp.

Đại Việt tiến công[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1478, phụ đạo phủ Trấn Ninh (tức Bồn Man) là Cầm Công liên kết với Lão Qua (Lan Xang) đem binh quấy nhiễu khu vực phía tây xứ Nghệ. Nhận thấy tình hình nguy hại, vua Lê Thánh Tông quyết định hạ chiếu đi đánh Lão Qua. Cuộc chiến ở biên giới có lẽ đã thành công, tuy nhiên theo Chiếu đánh Bồn Man của Lê Thánh Tông thì Cầm Công không những không quay lại thần phục nhà Hậu Lê mà còn chống lại Chế sứ Nguyễn Tử Nghi, giết đại thần Vương Văn Đán, ngăn thư báo thắng trận về đến Thăng Long. Đến tháng 6 năm 1479, vua Lê quyết định chuẩn bị đánh Bồn Man.

Theo đó, Lê Thánh Tông trao cho các tướng Thái úy Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lộ, Lê Hy Cát đeo ấn đem quân đi chinh phát Bồn Man. Theo kế hoạch, đến tháng 8 thì sẽ chia quân tiến công.

Đến tháng 7, Lê Thánh Tông xuống Chiếu đánh Lão Qua, trong đó kể tội Lan Xang sỉ nhục các vua nhà Hậu LêLê Thái Tổ, Lê Thái Tông, chứa chấp các tù trưởng làm loạn, cướp các vùng Lang Chánh, Sầm Thượng, Sầm Hạ, Lâm An, Quy Hợp. Đặc biệt Lê Thánh Tông nhắc đến chuyện Cầm Công của Bồn Man dẫn đường cho quân Lan Xang. Lê Thánh Tông liền sai các danh tướng chỉ huy 5 đạo quân, huy động quân số lên đến 18 vạn, chia làm 5 đường tiến vào Lan XangBồn Man:[4]

  • Đoan Vũ hầu Trịnh Công Lộ, Đô đốc Lê Vĩnh, Tổng binh Nguyễn Lộng chỉ huy cánh quân chính phía Bắc gồm quân tinh nhuệ của 5 vệ thuộc Đông quân Đô đốc phủ, quân số 2.000 người theo đường phủ An Tây đánh thẳng vào thành Lão Qua (Kinh đô Luang Prabang). Ngoài ra, Trịnh Công Lộ còn được toàn quyền chỉ huy cánh quân của Lê Lộng.
  • Phó tướng Lê Lộng, Tham tướng Đinh Thế Nghiêu theo đường Thuận Mỗi nằm trong tầm điều hành của cánh quân Trịnh Công Lộ, có vai trò yểm trợ cho cánh quân này đánh Lan Xang (Lão Qua), đồng thời đánh chẹn tàn quân.
  • Phó tướng Lê Nhân Hiếu chỉ huy cánh quân phía Bắc theo đường phủ Thanh Đô (Phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa), đánh vào chỗ sơ hở của Lan Xang tại Hủa Phăn, đánh Lão Qua và vu hồi vào Bồn Man.
  • Tướng quân Lê Thọ Vực dẫn cánh quân trung tâm đi theo đường chính phủ Trà Lân (Thừa tuyên Nghệ An), chỉ huy các doanh du kích đánh trực tiếp vào Bồn Man (Xiêng Khoảng), rồi xuyên qua Bồn Man sang Lão Qua. Cánh quân này trực tiếp chịu sai khiến của vua Lê Thánh Tông.
  • Tướng quân Lê Đình Ngạn chỉ huy cánh quân phía Nam theo đường phủ Ngọc Ma (Tây nam Nghệ An, khoảng Con Cuông, Thanh Chương tỉnh Nghệ An, Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh) ngược lên theo hướng tây bắc đánh Bồn Man rồi Lão Qua.

Theo sử Lào, quân Lan Xang đặt mai phục ở đồi Poomung. Trận chiến diễn ra suốt 3 ngày đêm, hai bên đều thương vong lớn, quân Lan Xang phải rút về Na Khaochao. Quân đội Đại Việt truy kích và giao chiến ở cánh đồng Na MoungkonNa Haidio. Hai bên đều chịu tổn thất, nhưng quân đội Đại Việt dựa vào ưu thế tạm thời về quân số bao vây và đánh bại Lan Xang, giết chết hai tướng Muen KwatepaMuen Neua. Cánh quân lan Xang do tướng Muen BunMuen Luan đến cứu cũng bị tiêu diệt. Một số tướng Lan Xang là Norasing, Noranarai, Noradet và Norara thì bị bắt sống và xử tử ở Na Khaochao. Bản thân thế tử Chao Chienglaw bị thương nặng, rồi bị bắt giết.

Thất bại lớn khiến vua Xaiyna Chakhaphat cùng hoàng tộc vội lên thuyền chạy tới Chieng Khan (khi đó thuộc Lan Na, nay thuộc tỉnh Loei, Thái Lan). Quân đội Đại Việt tiến vào thành Luang Prabang, tịch thu của cải, lấy đây làm bàn đạp để tiến sang phía Tây.

Khi đó hoàng tử Thengkham, con thứ của Xaiyna Chakhaphat, đang cai trị ở Dansai (thuộc Loei) tập hợp quân ở vùng Dansai và Chieng Khan tiến về kinh đô Luang Prabang. Quân Đại Việt khi đó đã rút khỏi. Còn sử Lào ghi quân Đại Việt bị quân Lan Xang tấn công bất ngờ, nên tan rã và tháo chạy.[2]

Chiến sự lan rộng[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, sau khi đánh chiếm Luang Prabang, quân đội Đại Việt mở cuộc tiến công truy kích quân Lan Xang về phía Tây[4], đưa quốc thư cho vua Miến Điện (Ava):[15]

Cánh quân trung tâm do Lê Thánh Tông thân chính mới đến hành cung Chiềng Vang, sau đến Châu Bồ được bốn ngày thì nghe tin Trịnh Công Lộ đại thắng, bèn trở về Thăng Long. Tuy nhiên, các cánh quân đánh Bồn Man có lẽ chưa thành công khi thư báo thắng trận của Lê Thọ Vực bị chặn mất. Lê Thánh Tông liền sai hai tướng vận lương Khâm sai Trần Bảo, Phó tướng Nguyễn Cảnh Thanh mang sắc chỉ cho Lê Thọ Vực khi đó đang đóng tại vùng đất chiếm được ở Sa Quan, châu Niệm Tống Trung (ngã ba sông thượng du Lan Xang).

Lê Thánh Tông trở về lập tức sai Lê Niệm đốc suất quân đội (sử ghi là 300.000), thân chinh để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng kháng cự của Cầm Công tại Bồn Man. Quân đội Đại Việt vượt qua được cửa ải, đốt phá các thành trì kháng cự, thiêu hủy kho tàng. Cầm Công bỏ chạy rồi chết. Dân Bồn Man khi đó đa phần bị chết đói, 9 vạn hộ chỉ còn 2.000 người bèn đầu hàng. Vua Lê Thánh Tông bèn cho Cầm Đông (em Cầm Công) làm Tuyên úy đại sứ để thu phục. Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi:

Đến tháng 1 năm 1480, Lê Thánh Tông trở về kinh đô, cuộc chinh phạt coi như đã hoàn thành mục tiêu.

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

Sử sách Lào kể rằng quân Lan Xang đã giết được vô số tướng sĩ Đại Việt. Quân đội Đại Việt phải bỏ chạy về nước và trong số 4000 tướng lĩnh Đại Việt, chỉ còn 600 sống sót về được đến Đại Việt[2].

Còn sử sách Việt Nam thì lại kể là quân đội Đại Việt thắng to, phá được thành, bắt được dân, giết được tướng, đuổi được vua Lan Xang trốn chạy.[4] Tuy nhiên, không thấy kể việc khao thưởng tướng lĩnh cầm quân thế nào.

Theo biên chép của Minh Thực lục, nhà Minh chỉ biết đến sự việc này vào năm sau (1480) qua Tổng binh Vân Nam là Kiềm quốc công Mộc Tông, còn đương thời khi xảy ra chiến sự giữa Đại Việt và Lan Xang, nhà Minh bận đối phó với những vụ quấy rối biên giới huyện Mông Tự, tỉnh Vân Nam của khoảng 800 quân Đại Việt do chính Lê Thánh Tông (Minh thực lục chép là Lê Hạo) phát động[17]. Mộc Tông nhận được lời "tố cáo" của các nước Bồn Man, Xa Lý, Bát Bách Đại Điện mới tâu lại vua Minh về vụ việc "Đại Việt đánh giết Lão Qua" năm 1480, sau đó Tổng đốc Lưỡng Quảng là Chu Anh sang tận đầu năm dương lịch 1481 (tháng 12 năm Canh Tý) mới tâu báo cụ thể hơn cho Minh Hiến Tông biết, theo đó Đại Việt đánh phá 20 trại của Lan Xang, giết hơn 20 vạn người[18], còn Đại Việt tổn thất 5 vạn, phải rút lui vào tháng 12 năm 1479[19].

Ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc chiến này đã khiến cho Lan Xang bị tàn phá nặng nề. Quan hệ giữa hai nước càng thêm xấu đi, đẩy Lan Xang tới chỗ liên minh chặt chẽ hơn với các quốc gia của người Thái khác. Bồn Man lệ thuộc vào Đại Việt, và từ đó về sau ít phụ thuộc vào Lan Xang hơn, đặc biệt là những giai đoạn Lan Xang suy yếu.

Trong khi đó, Đại Việt lại chịu thêm sức ép từ phía Đại Minh. Hoàng đế nhà Minh gửi thư trách hoàng đế Đại Việt về việc dấy binh đánh Lan Xang. Đại Việt sử ký toàn thư chép về việc này[4] như sau:

Để trả lời việc này (đánh Lão Qua), cùng hai việc tranh chấp biên giới phía bắc với nhà Minh cũng năm đó, vua Lê Thánh Tông sai Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung theo kế Lê Thọ Vực mà soạn 3 bài biểu (công hàm) ngoại giao, rồi sai Nguyễn Văn Chất, Doãn Hoành Tuấn, Vũ Duy Giáo trình cho vua nhà Minh, nhân dịp đi sứ tuế cống nhà Minh vào tháng 12 âm năm Canh Tý (1480).

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Coedès, George (1968). Walter F. Vella (biên tập). The Indianized States of Southeast Asia. trans.Susan Brown Cowing. University of Hawaii Press. ISBN 978-0-8248-0368-1.
  2. ^ a b c d Manlch, M.L. (1967) History of Laos, pages 126-129.
  3. ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, trang 102 bản điện tử của Viện Việt học. Lưu trữ 2012-07-04 tại Wayback Machine
  4. ^ a b c d e f g Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ thực lục quyển 13
  5. ^ Năm thứ 9 niên hiệu Hồng Đức tức năm 1478.
  6. ^ Năm thứ 10 niên hiệu Hồng Đức tức năm 1479.
  7. ^ Chỉ việc nhà Lê đặt châu Quy hợp phủ Lâm An và phủ Trấn Ninh)
  8. ^ Ở Quy Hợp.
  9. ^ Chuyện này chỉ sự kiện Lan Xang ban đầu đem quân sang giúp nghĩa quân Lam Sơn chống quân xâm lược Minh, sau không hiểu lý do nào lại quay sang giúp Minh đánh quân Lam Sơn. Xem Khởi nghĩa Lam Sơn.
  10. ^ Tức vùng Sầm Châu.
  11. ^ Có lẽ là Kamkong.
  12. ^ Manlch M. L. (1967) History of Laos (including the history of Lannathai, Chiengmai), page 76.
  13. ^ Grant Evans (2002) A Short History of Laos, Allen & Unwin, ISBN 1-86448-997-9, Pages 14-15.
  14. ^ Minh thực lục, tập 3, tr 111
  15. ^ Đại cương Lịch sử Việt Nam trang 324 có nói đến một tiểu quốc phía nam Mianma sang triều cống ngoại giao, có đó thể là Vương quốc Ava.
  16. ^ Cương mục ghi là sông Kim Sa. Không rõ Trường Sa và Kim Sa là sông nào vì xung quanh biên giới của Miến Điện với các vùng do các dân tộc Thái kiểm soát có rất nhiều sông như Mê Công, sông Thanlwin cùng các chi lưu của chúng. Nếu là sông ở miền Nam Miến Điện thì có lẽ là sông Thanlwin, nhưng như vậy quân Đại Việt tất phải đi qua lãnh thổ của vương quốc Ayutthaya.
  17. ^ Minh Thực lục, tập 3, tr 109
  18. ^ Minh Thực lục, tập 3, tr 110
  19. ^ Minh Thực lục, tập 3, tr 111
  20. ^ Năm thứ 11 niên hiệu Hồng Đức tức là năm 1480, tương ứng với lịch Trung Quốc là Minh Thành Hóa năm thứ 16.