Dray Bhăng

Dray Bhăng
Xã Dray Bhăng
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngTây Nguyên
TỉnhĐắk Lắk
HuyệnCư Kuin
Thành lập2005[1]
Địa lý
Tọa độ: 12°32′10″B 108°09′48″Đ / 12,53611°B 108,16333°Đ / 12.53611; 108.16333
Dray Bhăng trên bản đồ Việt Nam
Dray Bhăng
Dray Bhăng
Vị trí xã Dray Bhăng trên bản đồ Việt Nam
Diện tích41,59 km²[2]
Dân số (2005)
Tổng cộng9.294 người[2]
Mật độ223 người/km²
Khác
Mã hành chính24561[2][3]

Dray Bhăng là một thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Xã Dray Bhăng có vị trí địa lý:

Xã Dray Bhăng có diện tích 41,59 km², dân số năm 2005 là 9.294 người,[2] mật độ dân số đạt 223 người/km².

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, từ năm 1955, vị trí hiện tại của xã nằm trong xã Kim Châu Phát thuộc tổng Krông Ana của quận Lạc Thiện (quận Lạc Thiện sau năm 1975 đổi tên thành huyện Lak), ngày 20/3/1970 xã Kim Châu Phát được sát nhập vào quận Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ của tỉnh Darlac).[4]

Sau năm 1975, xã Kim Châu Phát đổi tên thành xã Hòa Hiệp chuyển địa giới thuộc huyện Krông Pắk (quận Phước An cũ).

Ngày 19 tháng 09 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 75/HĐBT thành lập huyện Krông Ana, trên cơ sở diện tích đất của thị xã Buôn Ma Thuột và huyện Krông Păk, các thôn buôn của Hòa Hiệp thuộc huyện Krông Ana.

Ngày 23 tháng 3 năm 2005, theo dựa theo Nghị định số 40/2005/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập các xã thuộc huyện Krông Ana, Ea Kar, Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, thành lập xã Dray Bhăng trên cơ sở 4.159 ha diện tích tự nhiên và 9.294 nhân khẩu của xã Hòa Hiệp, Krông Ana.

Tháng 8 năm 2007, theo Nghị định số 137/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ Việt Nam về việc điều chỉnh địa giới hành chính, tách huyện Krông Ana thành hai huyện Krông Ana và Cư Kuin, xã Dray Bhăng thuộc huyện Cư Kuin (Trung tâm Hành chính huyện Cư Kuin nằm trong địa bàn xã Dray Bhăng).

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Xã Dray Bhăng có 5 thôn, buôn, bao gồm có 3 thôn: Kim Châu, Nam Hòa, Thôn Lô 13 và 2 buôn: Hra Êa Tlǎ, Hra Êa Hning.

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Đời sống kinh tế khá ổn định. Kinh tế chủ yếu trồng cây cà phê, cao su, và hoa màu. Tôn giáo chủ yếu của người dân trong xã là Thiên chúa giáoPhật giáo.

Hiện nay có một số hộ nông dân đã "chuyển đổi cây trồng" hoặc xen canh trồng cây hồ tiêu trong diện tích của mình rất có hiệu quả, nhằm nâng cao đời sống kinh tế cho gia đình.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 40/2005/NĐ-CP
  2. ^ a b c d “Mã số đơn vị hành chính Việt Nam”. Bộ Thông tin & Truyền thông. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
  3. ^ Tổng cục Thống kê
  4. ^ Theo sách: Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành chính (1945-2002).

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]