Enchong Dee

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Enchong Dee
Dee tại the Star Magic Tour, tháng 04 2011
SinhErnest Lorenzo Velasquez Dee
5 tháng 11, 1988 (35 tuổi)
Naga City, Camarines Sur, Philippines
Quốc tịchPhilippines
Tên khácEnchong Dee, ELD,
Trường lớpDe La Salle University-Manila
Nghề nghiệpdiễn viên, người mẫu, ca sĩ,vận động viên bơi lội
Năm hoạt động2006–nay
Người đại diệnStar Magic (2006–nay)
Gia đìnhAJ Dee (anh trai)

Ernest Lorenzo Velasquez Dee, được biết đến với cái tên Enchong Dee (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1988) là một diễn viên, ca sĩ, người mẫuvận động viên nổi tiếng người Philippines. Dee đang là nghệ sĩ hợp đồng với công ty Star Magic của hãng truyền hình ABS-CBN. Anh bắt đầu nổi tiếng với vai chính trong phim truyền hình Katorse (2009). Anh từng đóng vai "Luis" trong bộ phim làm lại của Philippines Maria La Del Barrio (2011). Anh cũng diễn chính trong các phim đình đám của Philippines như Ina, Kapatid, Anak (2012–13) (phim đã phát sóng tại Việt Nam với tên gọi: Tình chị duyên em), và Muling Buksan Ang Puso (phim đã được phát sóng tại Việt Nam với tên gọi: Định mệnh tội lỗi).Tại Việt Nam, Enchong Dee từng được biết đến với nhiều phim nổi tiếng như: vai Nico trong - My Girl (Tình em trong anh) (bản phim làm lại của phim My girl của Hàn Quốc), Đối thủ, và gần đây nhất với hai phim đình đám tại Philippines: vai Ethan trong Tình chị duyên em và vai Leonel Beltran trong Định mệnh tội lỗi.

Anh trai của anh là AJ Dee, cũng là diễn viên và người mẫu tại Philippines.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Enchong Dee sinh ra tại thành phố Naga, Camarines Sur vào thứ bảy, ngày 5 tháng 11 năm 1988. Anh có hai anh em trai là, Angel James Dee, cũng là một diễn viên, trong khi em trai anh là, Isiah Dee, hiện là sinh viên của trường đại học thể thao hàng đầu Philippines De La Salle University Manila- College of St. Benilde. Enchong còn có một em gái.

Sau khi tốt nghiệp tại trường trung học Naga Hope Christian School, Anh dự định sẽ tiếp tục theo đuổi sự nghiệp vận động viên bơi lội chuyên nghiệp tại trường De La Salle University ở Manila. Dee từng nằm trong đội tuyển quốc gia bơi lội của Philippines và đã từng tham gia các giải đấu lớn trong khu vực như SEA Games và Asian Games 2006[1]. Trong sự nghiệp bơi lội, Enchong đã đạt được hơn 400 huy chương về bơi lội trong đó có thể kể đến huy chương bạc tại các kỳ SEA Age Group và huy chương vàng tại các Olympic Festival của Philippines.[2]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp bơi lội[sửa | sửa mã nguồn]

Dee bắt đầu sự nghiệp thi đấu bơi lội quốc tế vào năm 14 tuổi tại đại hội thi đấu bơi lội Southeast Asian Age-Group Swimming Championships. Kể từ đó, anh bắt đầu tham gia các giải đấu lớn trong nước và quốc tế bao gồm:the Palarong Pambansa, Southeast Asian Age-Group Swimming Championships, Afro-Asian Games, Southeast Asian Games, the Asian Games, the Asean University Games, the World University Games và the UAAP Swimming Championships.[2]

SEA Games[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2005, Dee tham gia kỳ SEA Games đầu tiên được tổ chức tại Manila khi anh mới 17 tuổi, anh đứng vị trí thứ 6.

Năm 2007, Kỳ SEA Games được tổ chức tại Nakhon Ratchasima, Thái Lan, Dee đứng vị trí thứ 8 và được công nhận ở đường đua 100m bơi bướm. Trong cả kỳ SEA Game năm đó, anh chỉ để thua một đường đua 200m bơi bướm về tay Fil-Am James Walsh. [2]

Asian Games[sửa | sửa mã nguồn]

Dee từng tham dự tại Đại hội thể thao châu Á. Tại Asian Games -Đại hội thể thao châu Á năm 2006, anh đứng vị trí thứ 2 xếp sau Ankur Poseria của Ấn Độ. Anh là kình ngư người Phillipines duy nhất đạt được vị trí đó. Asian Games tại Doha năm 2006 là kỳ đại hội thể thao quốc tế duy nhất anh tham gia. [2]

Giải nghệ[sửa | sửa mã nguồn]

Ban đầu, Dee dự định kết thúc sự nghiệp bơi lội sau kỳ SEA Games 2009.Tuy nhiên, sau màn trình diễn tuyệt vời, anh quyết định tiếp tục tham gia Kỳ đại hội thể thao Đông Nam Á 2009 (Southeast Asian Games). Quyết định giải nghệ được đưa ra sau khi anh tham gia tranh giải bơi lội tại UAAP Swimming Championship 2009. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2010, Dee tổ chức họp báo để tuyên bố việc anh giải nghệ, anh phát biểu anh không còn động lực để tiếp tục tập huấn chuẩn bị cho Á Vận Hội được tổ chức ở Quảng Châu. Vì vậy, anh tuyên bố giải nghệ ở tuổi 21. [2]

Sự nghiệp diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2006, Dee lần đầu xuất hiện trên truyền hình trong một chương trình talkshow tên Homeboy với vai trò là một trong các khách mời. Ngay lập tức anh lọt vào mắt xanh của một công ty người mẫu và các nhà quảng cáo, anh sớm xuất hiện trong nhiều mẫu quảng cáo cho các nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm: Close Up, nhãn hiệu thời trang Bench, hãng thức ăn nhanh KFC và Timex.

Vào tháng 5 năm 2007, hợp đồng của Dee với KFC hết hạn và anh đã chuyển sang ký hợp đồng với hãng Jollibee và trở thành gương mặt đại diện mới của hãng.

Dee bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 2007 với hàng loạt các vai diễn trong các phim Abt Ur Luv, Sineserye, Komiks, Your Song: my only hope và đặc biệt là vai Nico trong phim hit đình đám My Girl, đây là bản làm lại từ phim My girl của Hàn Quốc, trong phim anh đóng vai Nico - vai diễn của Lee Jun Ki trong phiên bản gốc. Sau thành công của My girl, bộ ba diễn viên Enchong Dee, Kim Chiu & Gerald Anderson tiếp tục hợp tác trong phim truyền hình My only hope, cũng khá thành công tại Philippines.

Năm 2009, anh nhận vai chính đầu tiên Arnel Dela Cruz trong phim truyền hình ngắn tập Your Song: Boystown. Vai diễn đột phá Arnel - một cậu bé mồ côi lớn lên trong trung tâm giáo dục dành cho trẻ em đường phố có khả năng đặc biệt về bơi lội đã mang lại cho anh thành công trong sự nghiệp diễn xuất và được khán giả rất yêu thích.Tiếp theo sau đó, anh đóng vai chính trong phim Katorse, dựa theo nguyên tác của phim năm 1968 (phim này cũng được làm lại vào năm 1981), đây là bộ phim đạt được tỷ lệ rating cao trong năm tại Philippines.

Năm 2010, anh tiếp tục hợp tác với các bạn diễn Erich GonzalesEjay Falcon, trong phim Tanging Yaman. Sau đó anh tham gia phim Magkaribal. Sau đó anh tham gia phim điện ảnh Sa 'yo Lamang với dàn diễn viên đình đám bao gồm: Christopher de Leon, Coco Martin..., bộ phim nhận được nhiều lời khen ngợi từ khán giả và giới phê bình điện ảnh. Vai James Alvero của anh nhận được nhiều đề cử và giúp anh thắng giải thưởng Gawad PASADO cho danh hiệu nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Cũng trong năm này, Enchong đóng vai chính trong phim điện ảnh cùng với bạn diễn quen thuộc Erich Gonzales trong phim tình cảm I Do. Cũng trong năm này anh đảm nhiệm vai trò MC - host của chương trình Shout out về ca nhạc rất được giới trẻ yêu thích.

Năm 2011, anh đóng vai chính trong phim làm lại Maria La Del Barrio vai Luis de la Vega. Vai diễn Toto - một cậu bé bị mù nhưng có tâm hồn mạnh mẽ và trái tim dũng cảm trong phim ngắn Maalaala Mo Kaya: Parol đưa anh đến vinh quang trong sự nghiệp diễn xuất. Màn trình diễn xuất sắc của Dee trong phim giúp anh nhận được đề cử tại nhiều giải thưởng uy tín trong nước và giúp anh thắng hai giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại hai giải thưởng hàng đầu Philippines là: Star Awards lần thứ 25 (2011) và Gawad TANGLAW(2012).

Năm 2012, anh đóng phim The Reunion (Đoàn tụ), cùng với các diễn viên cùng lứa như: Enrique Gil, Xian LimKean Cipriano. Bộ phim trở thành phim ăn khách nhất của Philippines trong năm 2012, nó phá vỡ nhiều kỷ lục tại phòng vé. Trong phim anh vào vai Loyld cùng nhóm bạn thân, đang trên đường quay lại với các bạn gái thời trung học, và tìm cách sửa chữa sai lầm của họ trong quá khứ. Đây cũng được cho là phim điện ảnh tiêu biểu nhất trong sự nghiệp của Enchong Dee.

Enchong kiếm được một triệu peso với tập phim ngày 18 tháng 08 năm 2012 trong tập phim "Kapamilya Deal Or No Deal" cùng với bạn diễn của anh trong phim Đoàn tụ là Kean Cipriano.

Trong năm này, sau thành công của The Reunion, anh tiếp tục tái hợp với hai bạn diễn của Reunion là Enrique Gil và Julia Montes trong bộ phim điện ảnh thể loại kinh dị Strangers.Đây là phim thứ ba anh hợp tác với Julia Montes (người được cho là bạn gái của anh).

Năm 2013, anh tái hợp với Kim Chiu cũng như các bạn diễn Xian LimMaja Salvador trong phim truyền hình đình đám Ina, Kapatid, Anak (phim phát sóng tại Việt Nam với tên Tình chị duyên em), trong phim anh đóng vai Ethan có tình cảm tay ba với hai bạn diễn nữ là Kim ChiuMaja Salvador. Tiếp sau đó, một cú hit ngoạn mục anh tạo ra với vai diễn Leonel Beltran trong phim Muling Buksan Ang Puso cùng với bạn gái cũ của anh là nữ diễn viên Julia Montes và người bạn diễn trong phim Đoàn tụ -Enrique Gil (phim phát sóng tại Việt Nam với tên: Định mệnh tội lỗi).Vai Leonel Beltran - một chàng trai trẻ có tính cách nửa chính nửa tà được anh khắc họa xuất sắc nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ khán giả và giới phê bình phim ảnh. Phim cũng được đề cử nhiều hạng mục quan trọng tại giải thưởng danh giá nhất Philippines - Star Award lần thứ 28 - 2014, hiển nhiên vai diễn xuất sắc của anh trong phim giúp anh nhận được đề cử Hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, tại lễ trao giải anh cũng là người dẫn chương trình cùng với người bạn thân là nữ diễn viên nổi tiếng - Kim Chiu.

Sự nghiệp ca hát[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài sự nghiệp diễn viên đình đám, anh cũng thử sức với vai trò ca sĩ, và anh đã khá thành công khi trở thành ca sĩ.Năm 2014, Dee phát hành single đầu tay với tên gọi, Chinito Problems và album Enchong Dee phát hành sau đó của anh nhận được giải đĩa bạch kim nhờ lượng đĩa phát hành kỉ lục.

Đầu năm 2015 anh dự kiến sẽ tổ chức nhiều show tại Phillipines cũng như biểu diễn phục vụ khán giả hải ngoại tại Mỹ, Australia và châu Âu.

Đời sống tình cảm[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu năm 2011, anh bắt đầu mối quan hệ tình cảm với nữ diễn viên tuổi teen Julia Montes sau khi họ hợp tác với nhau lần đầu trong phim Mara Clara (phát sóng tại Việt Nam với tựa: Trò đùa của số phận). Tuy nhiên sau 2 năm yêu nhau, mối quan hệ của họ đã kết thúc vào cuối năm 2012, có tin đồn cho rằng nam diễn viên Coco Martin là nguyên nhân khiến họ chia tay, tuy nhiên cả hai đều phủ nhận điều này. Họ chưa từng chính thức tuyên bố nhưng khi chia tay, đôi bên từng thừa nhận đã từng yêu nhau nhưng mọi chuyện đã kết thúc thực sự. Đến 2013, mối quan hệ của họ mới bắt đầu bình thường trở lại khi đóng cặp trở lại trong phim Muling Buksan Ang Puso.[3][4].

Bạn gái hiện tại của anh là Samantha Lewis một người mẫu lai Anh và Phillipines. Hai người bắt đầu hẹn hò vào tháng 7/2014.[3]

Các phim đã đóng[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên phim Vai diễn Hãng phim
2007 Komiks Presents: Pedro Penduko at ang mga Engkantao Mark ABS-CBN
Your Song Presents: Tulak ng Bibig Marlon
Mars Ravelo's Lastikman Rafael "Raffy" Gipit
Star Magic Presents: Abt Ur Luv:Ur Lyf 2 Blue Mangubat
2008 Star Magic Presents: Astigs in Haay...Skul Lyf Ipe
Star Magic Presents: Astigs in Luvin' Lyf Epi
My Girl Nico Legaspi
Your Song Presents: My Only Hope Juanito "Jhun" Dimaano Jr.
2009–nay ASAP 19 Host/Performer
2009 Komiks Presents: Mars Ravelo's: Nasaan Ka Maruja? Brian Lozano
Your Song Presents: Boystown Arnel Dela Cruz
Tayong Dalawa David Anthony Garcia III
Katorse John Joseph "Jojo" Wenceslao
2010 Your Song Presents: Love Me, Love You Water Boy
Maalaala Mo Kaya: Kariton Efren Penaflorida
Tanging Yaman Jose Mari "Jomari" Buenavista
Magkaribal Caloy Javier
Your Song Presents: Andi Nico Mariveles
Wansapanataym: Ali Badbad en da Madyik Banig Ali Badbad
Shout Out! Himself/TV Host
Maalaala Mo Kaya: Parol Toto
2011 Your Song Presents: Kim Manny
Mara Clara Cameo Appearance
Maria La Del Barrio Luis Fernando Dela Vega
2012-13 Ina, Kapatid, Anak Ethan Castillo
2013 Muling Buksan Ang Puso Leonel Beltran
2014 Maalaala Mo Kaya: Orasan Johnny
Maalaala Mo Kaya: Alak Paul
2015 Ipaglaban Mo: Sa Aking Paggising Dino
Ipaglaban Mo: Paano Na Ang Pangarap? Rolly
Wansapanataym Presents: My kungfu chinito Diego

Điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên phim Vai diễn Hãng phim
2009 BFF (Best Friends Forever) Paco Star Cinema
Paano Ko Sasabihin? [5] Mike Cinema One Originals
2010 Sa 'Yo Lamang [6] James Alvero Star Cinema
I Do Lance Anderson Tan
2012 The Reunion Lloyd
The Strangers Dolfo
2013 Four Sisters and a Wedding CJ Salazar Star Cinema
Tuhog Caloy Sicat
Call Center Girl Vince Sandoval
2014 Once a Princess Leonard Jamieson Regal Films, Skylight Films

Các album đã phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Bài hát Nghệ sĩ Đạo diễn
2013 "Chinito" Yeng Constantino Avid Liongoren
Năm Album Singles
2014 "Enchong Dee" Chinito Problems

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên giải thưởng Hạng mục Kết quả
2009 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Male Fashionista Đề cử
2010 Gawad PASADO Pinakapasadong Kabataan Đoạt giải
2010 41st Guillermo Mendoza Memorial Foundation Awards Most Promising Love Team với Erich Gonzales[7] Đoạt giải
2010 Star Awards for Movies New Movie Actor cho Paano Ko Sasabihin? Đề cử
2010 FAMAS Awards German Moreno Youth Achievement Award Đoạt giải
2010 Star Magic Ball Star Magic Ball's Most Romantic Couple với Erich Gonzales Đoạt giải
2010 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Male Fashionista Đề cử
2010 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Fans Club for Loveteam với Erich Gonzales Đề cử
2010 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Loveteam vớiErich Gonzales Đề cử
2010 41st Box Office Entertainment Awards Most Promising Love Team of the Year với Erich Gonzales Đoạt giải
2011 Barkada Choice Awards Choice Male Icon Đề cử
2011 Barkada Choice Awards Choice Actor of the Year cho Maalaala Mo Kaya: Parol Đoạt giải
2011 Barkada Choice Awards Choice Breakthrough Artist of 2010 Đoạt giải
2011 Gawad PASADO Pasadong Katuwang Aktor cho Sa'yo Lamang Đoạt giải
2011 Star Awards for Movies Movie Supporting Actor of the Year choSa'yo Lamang Đề cử
2011 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Male Fashionista Đề cử
2011 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Pin Up Boy Đoạt giải
2011 ASAP Pop Viewer's Choice Awards Pop Fans Club for Loveteam với Erich Gonzales Đề cử
2011 Star Magic Ball Star Magic Ball's Most Favorite Couple với Erich Gonzales Đoạt giải
2011 Golden Screen TV Awards Outstanding Performance by an Actor in a Single Drama/Telemovie Program cho Maalaala Mo Kaya: Parol Đề cử
2011 Star Awards for TV Best Single Performance by an Actor cho Maalaala Mo Kaya: Parol Đoạt giải
2012 Gawad TANGLAW Best Performance by an Actor (Single Performance) cho Maalaala Mo Kaya: Parol Đoạt giải
2012 43rd Guillermo Mendoza Memorial Foundation Awards[8] Best Loveteam for TV and Movies với Erich Gonzales Đoạt giải
2014 28th PMPC Star Awards For TV Best Drama Actor cho Muling Buksan Ang Puso Đề cử

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “15th Asian Games Doha 2006”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2015.
  2. ^ a b c d e “Swimming-statistics of Enchong Dee”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ a b “Enchong Dee and Julia Montes”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2015.
  4. ^ Julia và Enchong hòa giải sau khi chia tay
  5. ^ “Enchong Dee talks about his torrid kissing scene with Erich Gonzales in 'Paano Ko Sasabihin?'. ABS-CBN.com. ngày 27 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
  6. ^ “Enchong Dee looks forward to working with Christopher de Leon in the movie 'Sa 'yo Lamang'. ABS-CBN.com. ngày 20 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
  7. ^ "ABS-CBN big winner at GMMSF Entertainment Awards". ABS-CBN News. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2014.
  8. ^ "Vice Ganda named Phenomenal Box-Office Star; Derek Ramsay is Box-Office King while Anne Curtis and Cristine Reyes share Box-Office Queen title" Lưu trữ 2015-07-01 tại Wayback Machine. Pep.ph. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]