Chi Lý chua

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Họ Lý chua)
Chi Lý chua
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
(không phân hạng)core eudicots
Bộ (ordo)Saxifragales
Họ (familia)Grossulariaceae
DC.
Chi (genus)Ribes
L., 1753
Các loài
Xem văn bản.
Danh pháp đồng nghĩa
  • Botrycarpum A.Rich.
  • Botryocarpium Spach
  • Calobotrya Spach
  • Cerophyllum Spach
  • Chrysobotrya Spach
  • Coreosma Spach
  • Grossularia Mill.
  • Liebichia Opiz
  • Rebis Spach
  • Ribesium Medik.
  • Rolsonia Rchb.

Chi Lý chua hay chi Lý gai (danh pháp khoa học: Ribes) là một chi của khoảng 150 loài thực vật có hoa bản địa trong toàn bộ khu vực ôn đới thuộc Bắc bán cầu, kéo dài tới dãy núi Andes ở Nam Mỹ. Nó thường được coi là chi duy nhất trong Họ Lý chua hay Họ Lý gai (Grossulariaceae, đồng nghĩa Ribesiaceae Marquand). Một vài sách báo tiếng Việt cũng gọi các loài thuộc chi này là "Phúc bồn tử" nhưng tên gọi này dường như ban đầu vốn chỉ dành cho các loài thuộc chi Mâm xôi, Họ Hoa hồng. Bảy phân chi Lý chua đã được công nhận.

Đôi khi chi Ribes cũng được đưa vào họ Saxifragaceae. Một vài nhà phân loại học lại tách riêng các loài lý gai của chi này ra thành một chi gọi là Grossularia do thân của những loài này có nhiều gai, trong khi các loài khác nói chung không có gai ở thân, và hoa của chúng mọc thành nhóm từ 1 tới 3 hoa trên thân cây ngắn, chứ không mọc thành chùm.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cây bụi. Phân nhiều cành nhỏ. Ưa ẩm vừa phải, lá sớm rụng, nhỏ tới trung bình, mọc so le hay vòng, phiến lá xẻ thùy nông, gân lá hình chân vịt. Mép lá nguyên hay có khía răng cưa. Có hoặc không có lá kèm. Khi có lá kèm thì lá kèm hợp sinh với cuống lá. Hoa lưỡng tính hay đơn tính khác gốc. Thụ phấn nhờ côn trùng. Cụm hoa mọc thành dạng chùm. Có ống đài tự do. Các hoa có 2 lá bắc, nhỏ, cân đối. Bao hoa với tràng và đài hoa khác biệt. Đài hoa 4 hay 5, một vòng. Các cánh hoa hợp hay hợp một phần, thùy tù, hình chén hay hình chuông. Tràng hoa 4 hay 5 (có thể diễn giải như là các nhị lép), 1 vòng. Các cánh hoa tách biệt, giống như vảy, hình trứng ngược hay hình dùi. Bộ nhị 4 hay 5. Nhị 4 hay 5. Bao phấn không lắc lư. Bộ nhụy 2 lá noãn. Bầu nhụy hạ, 1 ngăn. Vòi nhụy 2, đầu nhụy 2. Noãn trong 1 khoang từ 4 tới 100. Quả là loại quả mọng không nứt, dày cùi thịt, chứa 20-100 hạt. Hạt có nội nhũ. Nội nhũ chứa dầu.

Sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Thực phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Chi Ribes bao gồm các loài lý chua (trong đó có nhiều loài ăn được như lý chua đen (Ribes nigrum), lý chua đỏ (Ribes rubrum) và lý chua trắng (Ribes glandulosum)), lý gai, và nhiều giống lai giữa chúng. Quả nói chung chua và chứa nhiều vitamin C. Các loài lý chua không nên nhầm lẫn với nho không hạt Zante (Zante currant, thuộc loài Vitis vinifera). Loại quả mọng Jostaberry là sản phẩm lai ghép phức tạp giữa lý chua đen với hai loài lý gai.

Các loài lý bị các ấu trùng của một số loài côn trùng cánh vẩy (Lepidoptera) phá hại. Xem Danh sách các loài côn trùng cánh vẩy phá hại lý chua.

Y học[sửa | sửa mã nguồn]

Người Anh điêng chân đen (Niitsítapi) sử dụng rễ lý chua đen miền bắc (Ribes hudsonianum) để điều trị các loại bệnh thận và các vấn đề kinh nguyệt và mãn kinh. Người Anh điêng Cree sử dụng quả của lý chua trắng (Ribes glandulosum) làm chất gia tăng khả năng sinh sản để giúp phụ nữ mang thai.

Rễ và hạt lý chua chứa nhiều axít gamma-linolenic (GLA). GLA đã được kiểm chứng lâm sàng như là chất có tác dụng trong điều trị hội chứng tiền kinh nguyệt[1].

Trồng trọt[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều loài được trồng làm cây cảnh và được sử dụng trong tạo cảnh quan truyền thống cũng như cây trồng trong các vườn sinh cảnh thực vật bản địa.

Có một số ngăn cấm trồng một vài loài lý chua tại một số bang của Hoa Kỳ, vì chúng là vật chủ lan truyền bệnh gỉ sắt thông trắng.

Một số loài[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Edible and Medicinal Plants of the West, Gregory L. Tilford, ISBN 0-87842-359-1

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]