HMS Castor (1915)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Castor
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Castor
Xưởng đóng tàu Cammell Laird
Đặt lườn 28 tháng 10 năm 1914
Hạ thủy 28 tháng 7 năm 1915
Nhập biên chế tháng 11 năm 1915
Số phận Bị bán để tháo dỡ, 30 tháng 7 năm 1936
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp tàu tuần dương C
Kiểu tàu Tàu tuần dương hạng nhẹ
Trọng tải choán nước 3.750 tấn (tiêu chuẩn)
Chiều dài 135,9 m (446 ft) (chung)
Sườn ngang 12,6 m (41 ft 6 in)
Mớn nước 4,6 m (15 ft)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước Parsons
  • 8 × nồi hơi Yarrow
  • 4 × trục
  • công suất 40.000 mã lực (29,8 MW)
Tốc độ 52,8 km/h (28,5 knot)
Tầm xa
  • 10.930 km ở tốc độ 18,5 km/h
  • (5.900 hải lý ở tốc độ 10 knot)
Tầm hoạt động 420 tấn dầu đốt (tối đa 841 tấn)
Thủy thủ đoàn tối đa 323
Vũ khí
Bọc giáp
  • đai giáp chính: 76 mm (3 inch) giữa tàu
  • 38-64 mm (1,5-2,5 inch) mũi
  • 51-64 mm (2-2,5 inch) đuôi
  • sàn trên: 25 mm (1 inch) giữa tàu
  • sàn chính: 25 mm (1 inch) bên trên bánh lái

HMS Castor là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương C của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và thuộc về lớp phụ Cambrian. Lớp phụ này, vốn còn bao gồm HMS Cambrian, HMS CanterburyHMS Constance, về căn bản dựa trên cấu trúc lườn của lớp phụ Caroline nhưng chỉ có hai ống khói và độ dày tối đa của đai giáp lên đến 102 mm (4 inch) thay vì 76 mm (3 inch) như của Caroline.

Castor được chế tạo bởi hãng Cammell Laird tại Birkenhead. Nó được đặt lườn vào ngày 28 tháng 10 năm 1914; được hạ thủy vào ngày 28 tháng 7 năm 1915; và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia vào tháng 11 năm 1915.

Thông thường Castor phục vụ như là soái hạm của Thiếu tướng Hải quân, và nó đã đảm trách vai trò như vậy trong trận Jutland, khi dẫn đầu Hải đội Khu trục 11. Mười thành vên thủy thủ đoàn của nó đã thương vong trong trận này; và nó bị một số hư hại nhưng vẫn sống sót qua trận chiến. Được xem là lạc hậu vào những năm 1930, nó bị bán vào ngày 30 tháng 7 năm 1936 và được đưa đến Rosyth vào tháng 8 cùng năm để tháo dỡ.

Lỗ thủng lớn bên hông Castor do đạn pháo sau trận Jutland

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]