HMS Chaser (D32)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu sân bay hộ tống USS Breton (CVE-10) khi phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia dưới tên HMS Chaser, khoảng năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Breton
Xưởng đóng tàu Ingalls Shipbuilding
Đặt lườn 28 tháng 6 năm 1941
Hạ thủy 15 tháng 2 năm 1943
Số phận Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Chaser
Nhập biên chế 9 tháng 4 năm 1943
Xuất biên chế 12 tháng 5 năm 1946
Số phận
  • Trả cho Hoa Kỳ; bán để hoạt động dân sự
  • Bị tháo dỡ tại Đài Loan năm 1973
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Attacker
Trọng tải choán nước 14.400 tấn (tiêu chuẩn)
Chiều dài 149,8 m (491 ft 6 in)
Sườn ngang 32 m (105 ft)
Mớn nước 7,9 m (26 ft)
Công suất lắp đặt 8.500 mã lực (6,3 MW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 33,3 km/h (18 knot)
Thủy thủ đoàn 890
Vũ khí
Máy bay mang theo 28
Hệ thống phóng máy bay 2 × thang nâng

HMS Chaser (D32), nguyên là tàu sân bay hộ tống USS Breton (CVE-10) (ký hiệu lườn ban đầu AVG-10 và rồi là ACV-10) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Bogue, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau chiến tranh nó được hoàn trả cho Mỹ, được bán để hoạt động cho hàng hải thương mại tư nhân, được đổi tên thành Aagtekerk và sau đó là E Yung, và cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1973 tại Đài Loan.

Thiết kế – Chế tạo – Chuyển giao[sửa | sửa mã nguồn]

Nó được đặt lườn vào ngày 28 tháng 6 năm 1941 như một tàu hàng kiểu C3-S-A1 theo hợp đồng với Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ; được chế tạo bởi hãng Ingalls Shipbuilding tại Pascagoula, Mississippi. Con tàu được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động vào ngày 9 tháng 4 năm 1943 dưới tên gọi USS Breton (CVE-10), nhưng đồng thời lại được chuyển cho Anh Quốc theo chương trình Cho thuê-cho mượn cùng ngày hôm đó. Nó được đổi tên thành HMS Chaser (D32) và đưa ra hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia như một chiếc thuộc lớp tàu sân bay hộ tống Attacker.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Chaser được phân công hoạt động trong vai trò hộ tống cho các đoàn tàu vận tải trên các tuyến đường hàng hải Bắc Cực, và đã giúp đánh chìm tàu ngầm Đức U-472 vào ngày 4 tháng 3 năm 1944 cùng các chiếc U-366U-973 trong hai ngày tiếp theo.

Chiếc tàu sân bay hộ tống được chính thứ hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 5 năm 1946, rồi được bán để hoạt động cho hàng hải thương mại tư nhân vào ngày 20 tháng 12 năm 1946 dưới tên gọi Aagtekerk. Con tàu được đổi tên thành E Yung vào năm 1967. Nó bị hư hại nặng do một vụ hỏa hoạn vào ngày 3 tháng 12 năm 1972, và bị tháo dỡ tại Cao Hùng, Đài Loan không lâu sau đó.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Tàu Kiểu C3-S-A1