HMS Manxman (M70)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu rải mìn HMS Manxman vào tháng 6 năm 1945
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Manxman
Đặt hàng 21 tháng 12 năm 1938[1]
Xưởng đóng tàu Alexander Stephen and Sons, Linthouse
Đặt lườn 24 tháng 3 năm 1939
Hạ thủy 5 tháng 9 năm 1940
Nhập biên chế 20 tháng 6 năm 1941[2]
Số phận Bị bán để tháo dỡ tháng 10 năm 1972
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu rải mìn Abdiel
Trọng tải choán nước
  • 2.650 tấn Anh (2.690 t) (tiêu chuẩn);
  • 3.415 tấn Anh (3.470 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 400,5 ft (122,1 m) (mực nước);
  • 418 ft (127 m) (chung)
Sườn ngang 40 ft (12 m)
Mớn nước
  • 11,25 ft (3,43 m) (tiêu chuẩn)
  • 14,75 ft (4,50 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons,
  • 4 × nồi hơi ống nước Admiralty,
  • 2 × trục,
  • công suất 72.000 shp (54 MW)
Tốc độ
  • 39,75 hải lý trên giờ (73,62 km/h) (tiêu chuẩn);
  • 38 hải lý trên giờ (70 km/h) (đầy tải)
Tầm xa 1.000 nmi (1.850 km; 1.150 mi) ở tốc độ 38 hải lý trên giờ (70 km/h; 44 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 242
Vũ khí

HMS Manxman (M70) là một tàu rải mìn lớp Abdiel được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã sống sót qua chiến tranh và chỉ bị tháo dỡ vào năm 1973.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh Thế giới thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Được đưa ra hoạt động vào ngày 7 tháng 6 năm 1941, nhiệm vụ đầu tiên của Manxman là chuyển giao thủy lôi đến Murmansk; sau đó nó được chuyển sang Địa Trung Hải, nơi nó được sử dụng vào việc tiếp tế cho Malta. Đến tháng 8 nó tham gia chiến dịch Mincemeat, bao gồm việc rải mìn vịnh Genoa trong khi ngụy trang như là con tàu Pháp Leopard. Từ tháng 10 năm 1941 đến tháng 2 năm 1942, Manxman quay trở lại Hạm đội Nhà và tham gia một số chiến dịch rải mìn tại Bắc Hảieo biển Anh Quốc. Đến tháng 3, nó gia nhập Hạm đội Đông tại Kilindini thuộc Ấn Độ Dương. Sau các hoạt động tuần tra và hộ tống tại đây, vào ngày 8 tháng 10, nó tham gia tấn công và chiếm đóng đảo Noise Be về phía Bắc bờ biển phía Tây của Madagascar, vốn do lực lượng Vichy Pháp chiếm đóng.

Lại chuyển sang Địa Trung Hải, Manxman được gửi đi cung cấp tiếp liệu cho Malta, tiếp nối bằng hoạt động rải mìn tại eo biển Sicilia. Vào ngày 1 tháng 12, trong khi di chuyển từ Algiers đến Gibraltar, nó trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức U-375 ở tọa độ 36°39′B 0°15′Đ / 36,65°B 0,25°Đ / 36.650; 0.250 và bị hư hại nặng. Sau khi được sửa chữa khẩn cấp tại Oran và Gibraltar, nó quay trở về Newcastle-upon-Tyne để sửa chữa toàn diện.

Manxman tái hoạt động vào ngày 10 tháng 4 năm 1945 và sẵn sàng để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Nó đi đến Geelong không lâu sau khi Nhật Bản đầu hàng và được sử dụng trong nhiệm vụ hồi hương và tiếp liệu.

Sau chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]

Quay trở về Anh Quốc vào tháng 6 năm 1946, nó lại phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương trước khi gia nhập Hạm đội Dự bị tại Sheerness. Sau một đợt tái trang bị, Manxman tham gia Hạm đội Địa Trung Hải vào năm 1951. Vào năm 1953, nó xuất hiện trong phim Sailor of the King như là chiếc tàu tuần dương Đức Essen.[3] Vào năm 1956, nó được bố trí như là sở chỉ huy cho vụ khủng hoảng kênh đào Suez. Sau khi trải qua một giai đoạn dự bị tại Malta và hai đợt tái trang bị, nó tái hoạt động vào năm 1963 như là tàu hỗ trợ quét mìn đặt căn cứ tại Singapore. Quay trở về Anh vào năm 1968, Manxman được sử dụng trong việc huấn luyện kỹ thuật tại Devonport; và sau một vụ hỏa hoạn, nó được chuyển sang lực lượng dự bị tại xưởng tàu Chatham trước khi bị tháo dỡ tại Newport vào năm 1973.[1]

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Trong tiếng Anh, Manxman dùng để chỉ một cư dân của đảo Man.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Mason, Geoffrey B. (2002). “HMS Manxman, British minelayer”. Service Histories of Royal Navy Warships in World War II. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2009.
  2. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Manxman (M70)”. U-Boat.net. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2009.
  3. ^ Taylor, David (2008). “HMS Manxman History 1940 - 1971”. myweb.tiscali.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2011.