HMS Rocket (H92)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục HMS Rocket (H92) khoảng năm 1945
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Rocket (H92)
Đặt hàng tháng 5 năm 1940
Xưởng đóng tàu Scotts Shipbuilding and Engineering Company, Greenock
Đặt lườn 14 tháng 3 năm 1941
Hạ thủy 28 tháng 10 năm 1942
Nhập biên chế 4 tháng 8 năm 1943
Xếp lớp lại Tàu frigate chống tàu ngầm, 1951
Số phận Bán để tháo dỡ, 1967
Đặc điểm khái quát(khi hạ thủy)[1]
Lớp tàu Lớp tàu khu trục R
Trọng tải choán nước
  • 1.705 tấn Anh (1.732 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.425 tấn Anh (2.464 t) (đầy tải)
Chiều dài 358 ft 3 in (109,19 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft 9 in (10,90 m)
Mớn nước 9 ft 6 in (2,90 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi Admiralty ba nồi
  • 2 × trục
  • công suất 40.000 shp (30.000 kW)
Tốc độ 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph)
Tầm xa 4.675 nmi (8.660 km; 5.380 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 176
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar dò tìm mặt đất Kiểu 285
  • radar cảnh báo không trung Kiểu 290
Vũ khí
Đặc điểm khái quát(sau cải biến)
Kiểu tàu Tàu frigate Kiểu 15 cải biến
Trọng tải choán nước
  • 2.300 tấn Anh (2.300 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.700 tấn Anh (2.700 t) (đầy tải)
Tốc độ 31 hải lý trên giờ (57 km/h; 36 mph)
Tầm xa 4.675 nmi (8.660 km; 5.380 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 174
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar xác định mục tiêu Kiểu 293Q;
  • radar dò tìm mặt biển Kiểu 277Q;
  • radar dẫn đường Kiểu 974;
  • radar điều khiển hỏa lực Kiểu 262;
  • IFF Kiểu 1010 Cossor Mark 10;
  • sonar dò tìm Kiểu 174;
  • sonar phân loại mục tiêu Kiểu 162;
  • sonar tấn công Kiểu 170
Vũ khí
Ghi chú các đặc tính khác tương tự như trên

HMS Rocket (H92/F191) là một tàu khu trục lớp R của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó được cải biến thành một tàu frigate Kiểu 15 vào năm 1952, cho vai trò chống tàu ngầm với ký hiệu lườn mới F191, và phục vụ cho đến năm 1967 khi bị bán để tháo dỡ.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Được đặt hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1940 như một phần của Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh thuộc Chi hạm đội Khẩn cấp 4, Rocket được đặt lườn bởi xưởng tàu của hãng Scotts Shipbuilding and Engineering CompanyGreenock, Scotland vào ngày 14 tháng 3 năm 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 10 năm 1942 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 4 tháng 8 năm 1943.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Rocket đã đối đầu với các tàu phóng lôi Đức trong eo biển Manche vào tháng 10 năm 1943, trong một trận chiến mà các chiếc HMS CharybdisHMS Limbourne bị mất. Limbourne đã bị Rocket đắnh đắm sau khi nó chết đứng giữa biển, nhằm tránh cho nó không bị lọt vào tay đối phương.

Đi đến Ấn Độ Dương vào tháng 1 năm 1944, Rocket tham gia vào cuộc bắn phá Sabang vào ngày 25 tháng 7 năm 1944 và xuống quần đảo Andaman trong tháng 2tháng 3 năm 1945.

Sau chiến tranh, Rocket được cải biến thành một tàu frigate Kiểu 15 vào năm 1952, cho vai trò chống tàu ngầm với ký hiệu lườn mới F191. Vào năm 1953, nó đã tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội tại Spithead nhân dịp lễ Đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth II.[3] Sau cùng, Rocket bị tháo dỡ tại Dalmuir vào tháng 3 năm 1967.

HMS Rocket (F193) sau khi cải biến thành một tàu frigate Kiểu 15

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lenton, H. T. (1998). British and Empire Warships of the Second World War. Greenhill Book. ISBN 9781557500489.
  2. ^ Raven, Alan (1978). War Built Destroyers O to Z Classes. Roberts, John. London: Bivouac Books. tr. 47. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  3. ^ Souvenir Programme, Coronation Review of the Fleet, Spithead, 15th June 1953, HMSO, Gale and Polden

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]