Jacques Vergès

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jacques Vergès
Xuất hiện trong loại phim truyền hình After Dark năm 1987
Sinh(1925-03-05)5 tháng 3 năm 1925
Ubon Ratchathani, Vương quốc Rattanakosin, Xiêm (nay là Thái Lan)
Mất15 tháng 8 năm 2013(2013-08-15) (88 tuổi)
Paris, Pháp
Quốc tịchPhápAlgérie
Học vịLuật sư tốt nghiệp Đại học Paris
Nghề nghiệpLuật sư
Nổi tiếng vìLuật sư bào chữa cho các tên tội phạm chiến tranh nổi tiếng[1]
Tôn giáoHồi giáo, Ki tô giáo
Phối ngẫuDjamila Bouhired
Con cáiJacquou Vergès (1951), Meriem Vergès (1967), Liess Vergès (1969)
Cha mẹRaymond Vergès, Pham Thị Khang

Jacques Vergès (5 tháng 3 năm 1925 – 15 tháng 8 năm 2013) là một luật sư người Pháp nổi tiếng liên tục từ thập niên 1950, ban đầu như là người chống chủ nghĩa thực dân, người cộng sản (1945-1957), sau đó là luật sư bảo vệ cho một loạt thân chủ nổi tiếng, như nhà đấu tranh người Algérie chống chủ nghĩa thực dân Djamila Bouhired (sau này trở thành vợ ông) trong thời gian 1957 – 1962 rồi nhà lãnh đạo Khmer Đỏ, chủ tịch Khieu Samphan trong năm 2008.

Các thân chủ của ông gồm những tên khủng bố thuộc cánh tả và cả cánh hữu, những người phạm tội ác chiến tranh và những người nổi dậy, trong đó có người chối bỏ Holocaust Roger Garaudy, người Đức Quốc xã phạm tội ác chiến tranh Klaus Barbie (1987),[1] và tên khủng bố quốc tế Ilich Ramírez Sánchez còn có biệt danh là Carlos Chó rừng (1994).

Năm 2002, Vergès tình nguyện làm luật sư bảo vệ cho cựu chủ tịch Serbia Slobodan Milošević, mặc dù Milošević khước từ mọi cố vấn luật pháp từ mọi phía. Các phương tiện truyền thông đã thông tin giật gân về các hoạt động của Vergès bằng tên giễu "luật sư của quỷ sứ",[2] và chính bản thân ông cũng góp phần vào việc làm cho mình trở thành người của công chúng có tiếng tăm xấu bằng cách đặt tên cho quyển tự truyện của mình là The Brilliant Bastard (tạm dịch: đứa con hoang xuất chúng)[3] cùng đưa ra những câu trả lời khiêu khích trong các cuộc phỏng vấn. Ông nói rằng khi người ta hỏi (nếu được đề nghị) liệu ông có nhận bào chữa cho Hitler không, ông đã trả lời: "Tôi thậm chí còn muốn bảo vệ Bush! Nhưng chỉ khi ông ta đồng ý nhận là mình có tội".[4][5]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Vergès sinh tại Ubon Ratchathani, Xiêm, và lớn lên ở đảo Réunion,[6] là con của Raymond Vergès, một nhà ngoại giao người Pháp, còn mẹ là một nữ giáo viên người Việt Nam. Năm 1942, với sự khuyến khích của người cha, ông đã đi tàu thủy tới Liverpool (Anh) để gia nhập Lực lượng Pháp tự do dưới sự lãnh đạo của Charles de Gaulle, chống lại Đức Quốc xã.[7] Năm 1945 ông gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông vào học luật họcĐại học Paris (trong khi người anh em sinh đôi Paul Vergès trở thành nhà lãnh đạo đảng Cộng sản đảo Réunion và là nghị viên của Nghị viện châu Âu).[8]

Năm 1949 Jacques làm chủ tịch Hiệp hội sinh viên thuộc địa (Association for Colonial Students), tại đây ông gặp và trở thành bạn của Pol Pot.[9]

Năm 1950, theo yêu cầu của các quân sư đảng viên đảng Cộng sản, ông sang Praha để lãnh đạo một tổ chức thanh niên trong 4 năm.[10]

Phong trào đòi độc lập Algérie[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi trở về Pháp, Vergès trở thành luật sư và mau nổi tiếng vì sẵn lòng nhận bào chữa cho những vụ kiện gây tranh cãi. Khi ở Algiers ông đã bào chữa cho nhiều người bị chính phủ Pháp cáo buộc tội khủng bố. Ông là người ủng hộ cuộc đấu tranh võ trang của Algérie chống lại Pháp, so sánh cuộc đấu tranh này giống như cuộc kháng chiến của Pháp chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã trong thập niên 1940. Vergès trở thành nhân vật nổi tiếng khắp nước sau khi bảo vệ cho người du kích Algérie chống Pháp Djamila Bouhired, thân chủ nữ đầu tiên của ông, về tội khủng bố: bà ta bị cáo buộc là đã đặt bom ở một tiệm cà phê, giết chết 11 người trong tiệm.[9] Trong phiên tòa này, ông đã sử dụng rupture strategy (chiến thuật bẻ gãy), trong đó ông cáo buộc bên công tố đã phạm cùng một tội như bị cáo.[11] Bouhired bị xử tử hình, nhưng được ân xá và trả tự do sau áp lực của quần chúng do những nỗ lực huy động của Vergès. Ít năm sau ông kết hôn với Djamila Bouhired.[12]

Trong một nỗ lực nhằm hạn chế sự thành công của Vergès trong việc bảo vệ các thân chủ người Algérie, ông bị kết án tù 2 tháng trong năm 1960 và bị tạm tịch thu giấy phép hành nghề luật sư về tội có những hoạt động phản quốc.[13] Sau khi Algérie giành được độc lập năm 1962, Vergès xin nhập quốc tịch Algérie dưới tên Mansour.[14]

Những năm biệt tích[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1970 tới 1978, Vergès không xuất hiện trước công chúng mà không có lời giải thích. Ông đã từ chối bình luận về những năm đó, và nhận xét trong một cuộc phỏng vấn với báo Der Spiegel của Đức là "Rất thú vị là không một ai, trong nhà nước cảnh sát hiện đại của chúng tôi, có thể tìm ra nơi tôi ở đã gần mười năm".[15] Người ta nhìn thấy ông lần cuối vào ngày 24 tháng 2 năm 1970. Ông xa vợ, Djamila, và cắt đứt mọi quan hệ với bạn bè và gia đình khiến họ lấy làm lạ là có lẽ ông đã bị giết.[16] Nơi ông ta ở trong những năm này vẫn còn là một điều bí ẩn. Nhiều cộng sự viên thân cận của ông trong thời gian này cho rằng ông ở Campuchia với Khmer Đỏ[17], nhưng cả Pol Pot lẫn Ieng Sary đều bác bỏ. Cũng có tin đồn rằng người ta đã phát hiện Vergès ở Paris cũng như ở các nước Ả Rập cùng với các nhóm chiến binh Palestine.[18]

Các vụ biện hộ sau thời biệt tích[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi trở về cuộc sống bình thường, Vergès lại tiếp tục hành nghề luật sư, bào chữa cho Georges Ibrahim Abdallah, phạm tội khủng bố, và Klaus Barbie, người phạm tội chiến tranh của Đức Quốc xã.

Năm 1999 Vergès đã kiện tổ chức Ân xá Quốc tế nhân danh chính phủ Togo.[19] Năm 2001, Vergès đã thay mặt Idriss Déby, tổng thống Chad, Omar Bongo, tổng thống Gabon, và Denis Sassou-Nguesso, tổng thống Cộng hòa Congo, kiện François-Xavier Verschave tác giả quyển sách Noir silence trong đó ông này tố cáo tội ác của Françafrique[20] về tội "xúc phạm nguyên thủ quốc gia ngoại quốc".[21] Viên chưởng lý nhận xét rằng tội này khiến ta nhớ lại tội khi quân thời quân chủ; tòa án cho rằng điều này trái với Công ước châu Âu về Nhân quyền, do đó đã tha bổng Verschave.[21]

Sau khi lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo xâm chiếm Iraq trong tháng 3 năm 2003 và truất phế Saddam Hussein, nhiều nhà lãnh đạo cũ của chế độ Saddam đã bị bắt. Tháng 5 năm 2008, Tariq Aziz – cựu thủ tướng Iraq dưới thời Saddam Hussein đã tập hợp một toán luật sư gồm Vergès cùng một luật sư người Pháp gốc Liban và 4 luật sư người Ý để bảo vệ mình trước "Tòa án hình sự tối cao Iraq".[22] Cuối năm 2003, Vergès cũng đã tình nguyện bào chữa cho Saddam Hussein nếu ông này yêu cầu. Tuy nhiên, gia đình Saddam đã không nhờ Vergès.[23]

Jaques Vergès, luật sư bảo vệ cho Khieu Samphan trước tòa án quốc tế (2011)

Tháng 4 năm 2008, cựu chủ tịch Khieu Samphan của Khmer Đỏ đã bị truy tố về tội diệt chủng, Vergès đã đại diện cho ông ta đã bào chữa rằng: Khieu Samphan không hề chối là nhiều người dân Campuchia đã bị giết, nhưng là nguyên thủ quốc gia ông ta không hề có trách nhiệm trực tiếp.[24]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Jacques Vergès kết hôn với Djamila Bouhired và cải sang theo Hồi giáo. Họ có ba người con: Jacquou Vergès, Meriem Vergès và Liess Vergès, sau đó có thêm một cháu gái, Fatima Nur Vergès-Habboub, con gái của Meriem và người chồng Fouad.[25]

Từ trần[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 15 tháng 8 năm 2013, Jacques Vergès đã từ trần vì bị nhồi máu cơ tim,[26][27] trong cùng căn phòng mà Voltaire đã từ trần.[28]

Tang lễ của ông được cử hành ngày 20.8.2013 tại "Nhà thờ thánh Thomas Aquino" (Paris) do linh mục Alain de la Morandais, một trong số bạn thân cận của ông chủ trì[29]. Jacques Vergès được an tang ở nghĩa trang Montparnasse, bên cạnh ngôi mộ giả của Charles Baudelaire.

Tác phẩm xuất bản[sửa | sửa mã nguồn]

Sách viết về Jacques Vergès[sửa | sửa mã nguồn]

  • Robert Chaudenson: "Vergès père, frères & fils, une saga réunionnaise", Nhà xuất bản. L'Harmattan, 2007, 291 trang Bản mẫu:ISBN= 978-2-296-03690-1
  • Philippe-Karim Felissi: "Jacques Vergès l'anticolonialiste", Nhà xuất bản. Félin, collection Histoire et societies, năm 2005, 116 trang Bản mẫu:ISBN=2-86645-584-3
  • Thierry Jean-Pierre, Jacques et Paul Vergès: Vergès et Vergès, de l'autre côté du miroir, Nhà xuất bản. Jean-Claude Lattès, 2000, 286 trang + 8 trang hình Bản mẫu:ISBN= 2-7096-2101-0
  • Bernard Violet và Robert Jégaden: Vergès, le maître de l'ombre, Nhà xuất bản. Seuil, coll. L'épreuve des faits, 7.1.2000, 285 trang, isbn 2-02-031440-1. Ngày 26.4.2000, Tòa thượng thẩm Paris đã bác đơn của Jacques Vergès kiện Bernard Violet về quyển tiểu sử này.
  • Yves Courrière: "La Guerre d'Algérie T1 - (1954-1957)" (tái bản 2 tập), Nhà xuất bản.Fayard 2005, 947 trang Bản mẫu:ISBN=978-2-213-61118-1

Phim tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

Trong văn hóa bình dân[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo và Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “1987: Nazi war criminal Klaus Barbie gets life”. BBC News. ngày 3 tháng 7 năm 1987. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
  2. ^ Tên giễu luật sư của quỷ sứ do báo chí châu Âu sử dụng để mô tả không riêng Jacques Vergès, mà còn chỉ cả Giovanni Di Stefano.
  3. ^ The French epithet has sometimes been translated as "luminous bastard"
  4. ^ Event occurs at 01:58:42 - Director:Barbet Schroeder, Interviewee:Jacques Vergès (ngày 12 tháng 4 năm 2008). Avocat de la terreur, L' (Documentary) (DVD). Canal+ [fr]. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.I can't stand a man being humiliated, even an enemy. For a lone man to be insulted by a lynch mob. I was asked: "Would you defend Hitler?" "I said I'd even defend Bush! "But only if he agrees to plead guilty."
  5. ^ Kenneth Turan (ngày 12 tháng 10 năm 2007). “Giving monsters a strong defense”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2008.
  6. ^ “Jacques Vergès: 'The Devil's advocate'. BBC News. ngày 29 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
  7. ^ Event occurs at 00:04:04 - Director:Barbet Schroeder, Interviewee:Jacques Vergès (ngày 12 tháng 4 năm 2008). Avocat de la terreur, L' (Documentary) (DVD). Canal+ [fr]. IMDB - 1032854. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008."For France to disappear was intolerable to me. That's why I enlisted."
  8. ^ “MEP profile”. European Union. 2007. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2008.
  9. ^ a b DAPHNE MERKIN (ngày 21 tháng 10 năm 2007). “Speak No 'Evil'. New York Times. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
  10. ^ Boyd van Hoeij (2008). “review: L'avocat de la terreur (Terror's Advocate) (Rotterdam 2008)”. european-films.net. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2008. Not mentioned either are his controversial defence of Holocaust denier Roger Garaudy and his formative work in Prague in the 1950s – in the middle of the Cold War, though possible connections with secret services and many underground organisations in countries ranging from Germany to Israel and Algeria are hinted at and explored.
  11. ^ MARCO CHOWN OVED (ngày 2 tháng 11 năm 2008). “The Jackal's defender has his own one-man show”. Radio France Internationale. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2008.
  12. ^ Anh Doãn - Thùy Dương (ngày 3 tháng 9 năm 2013). “Luật sư Jacques Verges: "Thầy cãi của quỷ". Báo Công an nhân dân. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2013.
  13. ^ Michael Radu (ngày 14 tháng 4 năm 2004). “Saddam Circus Is Coming to Town: the Strange Story of Jacques Vergès”. Foreign Policy Research Institute. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008. At a time when France was at war, Vergès openly supported and defended terrorists and their French accomplices— that is, traitors. He was jailed for this for two months in 1960 and temporarily disbarred.
  14. ^ Airdj, Jamila (ngày 16 tháng 8 năm 2013). 16 tháng 8 năm 2013-1714482_23.php “Jacques Vergès, l'homme aux mille vies” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Le Point (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2013.[liên kết hỏng]
  15. ^ “Interview with Notorious Lawyer Jacques Vergès: 'There Is No Such Thing as Absolute Evil' - SPIEGEL ONLINE”. SPIEGEL ONLINE. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
  16. ^ Event occurs at 00:50:29 - Director:Barbet Schroeder (ngày 12 tháng 4 năm 2008). Avocat de la terreur, L' (Documentary) (DVD). Canal+ [fr]. IMDB - 1032854. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008."He was last seen on ngày 24 tháng 2 năm 1970, at an anti-colonial rally in Paris. He made a speech and vanished. After three months, Djamila Bouhired and his friends, were sure he was dead."
  17. ^ Event occurs at 00:52:56 - Director:Barbet Schroeder, Interviewee: Ieng Sary (ngày 12 tháng 4 năm 2008). Avocat de la terreur, L' (Documentary) (DVD). Canal+ [fr]. IMDB - 1032854. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008."The Brilliant Bastard In that book are two passages I remember. It says... that Jacques Vergès could have been in Cambodia. I remember that Pol Pot wrote in the margin: No."
  18. ^ Event occurs at 00:55:44 - Director: Barbet Schroeder, Interviewee: Pascal (ngày 12 tháng 4 năm 2008). Avocat de la terreur, L' (Documentary) (DVD). Canal+ [fr]. IMDB - 1032854. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008."It was in May 1973,... several politicians... were meeting at Arafat's HQ.... Arafat suddenly looked at [Abou Hassan Salameh PLO security chief] and asked: "Who is this Vergès? What is he?" Abou Hassan Salameh answered literally: "He's an important lawyer who defends the Palestinian cause." Arafat smiled and said: "Keep working with him." My codename was "Pascal". And Vergès? "Mansour"."
  19. ^ “Togo to sue Amnesty International”. BBC News. ngày 20 tháng 5 năm 1999 Published at 11:56 GMT 12:56 UK. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  20. ^ thuật ngữ chỉ mọi quan hệ giữa Pháp và các nước thuộc địa cũ tại châu Phi, ở đây là nói về 3 tổng thống Chad, Gabon và Cộng hòa Conggo
  21. ^ a b “French author wins Africa book case”. BBC News. ngày 25 tháng 4 năm 2001. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
  22. ^ “Saddam family slims defence team”. BBC News. ngày 8 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008.
  23. ^ “Khmer Rouge leader seeks release”. BBC News. 07:33 GMT, Wednesday, ngày 23 tháng 4 năm 2008 08:33 UK. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  24. ^ Ma'n Abul Husn (2007). “Women of Distinction: Djamila Bouhired The Symbol of National Liberation”. pub. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2008.
  25. ^ Robert D. McFadden (ngày 16 tháng 8 năm 2013). “Jacques Vergès, Defender of Terrorists And War Criminals, Is Dead at 88”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2013.
  26. ^ “Controversial French lawyer Verges dies at 88”. AFP. ngày 16 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2013.
  27. ^ Jérôme Dupuis (ngày 16 tháng 8 năm 2013). “Jacques Vergès est mort dans la chambre de Voltaire”. L'Express. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2013.
  28. ^ “Autour du cercueil de Jacques Vergès se retrouvent ceux qui ne se fréquentent pas”. Le Monde.fr. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
  29. ^ Phim này được tuyển chọn trong thể loại Un certain regard của Liên hoan phim Cannes năm 2007 và đã đoạt Giải César năm 2008 cho phim tài liệu xuất sắc nhất

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]