Kisaragi (tàu khu trục Nhật) (1925)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục Nhật Bản Kisaragi, tháng 2 năm 1927
Lịch sử
Nhật Bản
Tên gọi Tàu khu trục số 21
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Maizuru
Đặt lườn 3 tháng 6 năm 1924
Hạ thủy 5 tháng 6 năm 1925
Hoạt động 21 tháng 12 năm 1925
Đổi tên Tàu khu trục số 21 thành Kisaragi: 1 tháng 8 năm 1928
Xóa đăng bạ 15 tháng 1 năm 1942
Số phận Bị đánh chìm trong Trận chiến đảo Wake ngày 11 tháng 1 năm 1941
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Mutsuki
Trọng tải choán nước
  • 1.315 tấn (tiêu chuẩn);
  • 1.445 tấn (đầy tải)
Chiều dài
  • 97,54 m (320 ft) mực nước
  • 102,72 m (337 ft) chung
Sườn ngang 9,16 m (30 ft)
Mớn nước 2,96 m (9 ft 8 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × Turbine hơi nước Kampon
  • 4 × nồi hơi ống nước Ro-Gō Kampon
  • 2 × trục
  • công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)
Tốc độ 69 km/h (37,25 knot)
Tầm xa
  • 6.700 km ở tốc độ 26 km/h
  • (3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)
Thủy thủ đoàn 154
Vũ khí

Kisaragi (tiếng Nhật: 如月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp Mutsuki của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được xem là tiên tiến vào lúc đó, những con tàu này đã phục vụ như những tàu khu trục hàng đầu của Nhật trong những năm 1930, nhưng được xem là đã lạc hậu vào lúc Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra;[1] dù sao lớp Mutsuki vẫn được giữ lại ở tuyến đầu nhờ tầm xa hoạt động và kiểu ngư lôi mạnh mẽ mà chúng được trang bị.[2] Kisaragi nổi bật vì là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Nhật, ngay sau tàu khu trục Hayate, bị đánh chìm ngay từ giai đoạn mở đầu của cuộc xung đột này.[3]

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Việc chế tạo lớp tàu khu trục Mutsuki được chấp thuận như một phần của chương trình phát triển Hải quân Đế quốc Nhật Bản sau khi Hiệp ước Hải quân Washington có hiệu lực, và chúng được đặt hàng trong năm tài chính 1923.[4] Lớp tàu này là một phiên bản nối tiếp và cải biến dựa trên các lớp tàu khu trục lớp MinekazeKamikaze trước đó, vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[5] Kisaragi được đặt lườn tại Xưởng hải quân Maizuru vào ngày 3 tháng 6 năm 1924, được hạ thủy vào ngày 5 tháng 6 năm 1925 và được đưa ra hoạt động vào ngày 21 tháng 12 năm 1925.[6] Thoạt tiên chỉ được gọi đơn giản là "Tàu khu trục số 21" (第二十一号駆逐艦, Dai-21-Gō Kuchikukan), nó được đổi tên thành Kisaragi vào ngày 1 tháng 8 năm 1928.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Như một phần của cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào những ngày mở đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Thái Bình Dương, Bộ tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản quyết định chiếm đóng đảo Wake, lúc đó do các đơn vị của Thủy quân Lục chiến Mỹ phòng thủ. Kisaragi nằm trong thành phần Đội khu trục 30 của Hải đội Khu trục 6 trực thuộc Hạm đội 4 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và được bố trí từ Truk dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Thiếu tá Hải quân Yoichiro Ogawa.[7]

Sáng sớm ngày 11 tháng 12 năm 1941, trong cuộc đụng độ mà sau này được đặt tên là Trận chiến đảo Wake, lực lượng Mỹ trú đóng trên đảo đã đẩy lui nỗ lực đổ bộ đầu tiên của lực lượng Nhật Bản, vốn được bảo vệ bởi các tàu tuần dương hạng nhẹ Yūbari, TenryūTatsuta cùng Hải đội Khu trục 29 bao gồm các tàu khu trục Yayoi, Mutsuki, Kisaragi, Hayate, OiteAsanagi; hai tàu khu trục cũ thuộc lớp Momi được cải biến thành các tàu tuần tra Số 32Số 33, và hai tàu vận chuyển binh lính chở theo 450 người thuộc Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đặc biệt.

Lực lượng Thủy quân Lục chiến phòng thủ đã khai hỏa vào hạm đội đổ bộ bằng sáu khẩu pháo phòng thủ duyên hải 127 mm (5 inch) vốn được lấy từ các thiết giáp hạm cũ bị tháo dỡ, và đã đánh chìm Hayate; tàu tuần dương Yubari cũng bị bắn trúng 11 lần. Kisaragi đang rời khỏi khu vực chiến sự khi nó bị tấn công bởi bốn máy bay tiêm kích F4F Wildcat cất cánh từ Wake trang bị bom 45 kg (100 lb). Một chiếc Wildcat do phi công Henry "Baron" Elrod đã ném các quả bom về phía đuôi chiếc Kisaragi vốn đang chất đầy các quả mìn sâu.[8] Cú đánh trúng khiến con tàu nổ tung và chìm với toàn thể nhân sự trên tàu ở khoảng cách 48 km (30 dặm) về phía Tây Nam đảo Wake.[9] Chiến công đánh chìm Kisargi đã góp phần vào việc truy tặng Huân chương Danh dự cho Elrod.

Kisaragi được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 1 năm 1942.[6] Bất chấp thất bại này, lực lượng Nhật Bản vẫn thành công trong việc chiếm đóng Wake trong nỗ lực lần thứ hai vào cuối tháng 12 năm đó.

Danh sách thuyền trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Jones, Daniel H. (2003). “IJN Minekaze, Kamikaze and Mutsuki class Destroyers”. Ship Modeler's Mailing List (SMML). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010.
  2. ^ Evans. Kaigun: Strategy, Tactics, and Technology in the Imperial Japanese Navy
  3. ^ Brown, Warship Losses of World War Two
  4. ^ Globalsecurity.org, IJN Mutsuki class destroyers
  5. ^ Howarth, The Fighting Ships of the Rising Sun.
  6. ^ a b Nishidah, Hiroshi (2002). “Mutsuki class 1st class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010.
  7. ^ Dull. A Battle History of the Imperial Japanese Navy
  8. ^ Devereaux, The Story of Wake Island
  9. ^ Nevitt, Allyn D. (1997). “IJN Kisaragi: Tabular Record of Movement”. Long Lancers. Combinedfleet.com.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Brown, David (1990). Warship Losses of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-914-X.
  • Devereaux, Colonel James P.S., USMC (1947). The Story of Wake Island. The Battery Press. ISBN 0-89839-264-0.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Howarth, Stephen (1983). The Fighting Ships of the Rising Sun: The Drama of the Imperial Japanese Navy, 1895–1945. Atheneum. ISBN 0-689-11402-8.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. US Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
  • Watts, Anthony J (1967). Japanese Warships of World War II. Doubleday. ASIN B000KEV3J8.
  • Whitley, M J (2000). Destroyers of World War Two: An International Encyclopedia. London: Arms and Armour Press. ISBN 1-85409-521-8.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]