Núi Ôliu

Núi Ôliu
Độ cao809 m (2.654 ft)
Vị trí
Núi Ôliu trên bản đồ Israel
Núi Ôliu
Núi Ôliu
Tọa độ31°47′0″B 35°15′3″Đ / 31,78333°B 35,25083°Đ / 31.78333; 35.25083
Núi Ôliu nhìn từ thành phố cổ cho thấy nghĩa trang Do Thái
Toàn cảnh núi Ôliu

Núi Ôliu hay núi Cây Dầu (tiếng Hebrew: הר הזיתים, Har HaZeitim; tiếng Ả Rập: جبل الزيتون, الطور}}, Jebel az-Zeitun; tiếng Anh: Mount of Olives) là một núi ở phía đông thành phố Jerusalem gồm 3 ngọn, trải dài từ bắc xuống nam.[1] Ngọn cao nhất, at-Tur, cao 818 mét (2,683 ft).[2] Núi được gọi theo tên các lùm cây olive đã có thời phủ kín các sườn dốc của núi. Núi Ôliu gắn liền với các truyền thống Do TháiKitô giáo.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

ngôi mộ của Absalom- Yad Avshalom
ngôi mộ của Zachary - Mộ của Zechariah
Lăng mộ Benei Hezir
Mộ của Huldah
Cave của các tiên tri
Mộ của Pharaoh của con gái

Quân đội đế quốc La Mã từ quân đoàn 10 đã đóng trại trên núi này trong cuộc vây hãm Jerusalem năm 70 sau CN. Lễ nghi tôn giáo đánh dấu việc khởi đầu một tháng mới, được tổ chức trên núi Ôliu vào thời Đền Thờ thứ hai (Second Temple).[3] Sau khi Đền Thờ bị phá hủy, các người Do Thái đã cử hành lễ Sukkot (lễ Lều Trại) trên núi Ôliu. Họ đi hành hương tới núi Ôliu bởi vì núi này cao hơn Núi Đền Thờ 80 mét và cho một cái nhìn toàn cảnh về Đền Thờ. Nó trở thành nơi truyền thống để than khóc việc Đền Thờ bị phá hủy, nhất là vào ngày Tisha B'Av.[3] Năm 1481, một người hành hương Ý gốc Do Thái, Rabbi Meshulam Da Volterra, đã viết: "Và mọi cộng đồng người Do Thái, hàng năm đều lên núi Zion vào ngày Tisha Be-’Av để ăn chay và than vãn, và từ đây họ đi xuống dọc thung lũng Yoshafat rồi lên núi Ôliu. Từ trên núi Ôliu họ nhìn thấy tất cả Đền Thờ (núi Đền Thờ) và từ đây họ khóc và than vãn việc Đền Thờ bị phá hủy."[4]

Từ thời Thánh kinh cho tới ngày nay, các người Do Thái được mai táng trên núi Ôliu. Ước tính có khoảng 150.000 ngôi mộ trên núi này, trong đó có các mồ mả theo truyền thống liên kết với tiên tri ZechariahAvshalom (Absalom). Rabbi Chaim ibn Attar, tác giả quyển ‘’Ohr Hachaim Hakadosh’’, cũng được chôn ở đây. Các rabbi quan trọng từ thế kỷ 15 tới thế kỷ 20 cũng được chôn cất ở đây, trong số đó có Abraham Isaac Kook, vị Rabbi trưởng Ashkenazi đầu tiên của Israel, và con trai ông ta, Zvi Yehuda Kook. Năm 1948, các vụ mai táng người Do Thái dừng lại, và có việc phá hoại hàng loạt xảy ra từ năm 1948 tới 1967. Trong vòng 19 năm dưới sự cai trị của Jordan có khoảng 40.000 trên 50.000 ngôi mộ bị mạo phạm.[5] Vua Hussein cho phép xây dựng Intercontinental Hotel (khách sạn Liên lục địa) tại đỉnh núi Ôliu cùng với một đường đi cắt ngang qua nghĩa trang nên đã phá hủy hàng trăm mồ mả người Do Thái, trong đó một số từ thời Đền Thờ thứ nhất. [6] [7][8] Sau cuộc chiến tranh 6 ngày, công việc trùng tu được bắt đầu, và nghĩa trang lại mở ra cho việc mai táng.

Thủ tướng Israel Menachem Begin đã yêu cầu được mai táng trên núi này, bên cạnh mộ của Etzel thành viên Meir Feinstein, hơn là chôn trên nghĩa trang quốc gia Núi Herzl.[9]

Các đề cập tới trong Thánh kinh Cựu Ước[sửa | sửa mã nguồn]

Núi Ôliu được nói tới lần đầu liên quan tới việc David chạy trốn khỏi Absalom (II Samuel 15:30): "Và David đi lên núi Ôliu, và khóc khi ông đi lên." Lối đi lên dường như ở phía đông của thành David, gần làng Silwan.[1] Tính chất thiêng liêng của núi được ám chỉ tới trong sách Ezekiel (11:23): "Và vinh quang của Chúa đi lên từ giữa thành phố, và đứng trên núi nơi ở phía đông thành phố."[1] Vua Solomon đã xây các bàn thờ cho các vị thần của những người vợ ngoại giáo của ông ta trên ngọn phía nam (Sách các Vua I 11:7-8). Dưới thời cai trị của vua Josiah, núi này được gọi là núi thối rữa (sách các Vua II 23:13). một lời tiên tri khải huyền trong Sách Zechariah nói rằng Yahweh (Gia Vê) sẽ đứng trên núi Ôliu và ngọn núi sẽ xẻ thành 2 phần, một nửa dời lên bắc, một nửa dời xuống nam (Zechariah 14:4).

Các đề cập tới trong Tân Ước[sửa | sửa mã nguồn]

Núi Ôliu thường được nói tới trong Tân Ước (phúc âm Matthew 21:1; 26:30, vv...) như tuyến đường từ Jerusalem tới Bethany và là nơi chúa Giêsu đứng khi Ngài khóc thương thành Jerusalem. Được kể là chúa Giêsu đã có lúc ở trên núi, giảng dạy và báo trước về các tiên tri giả (sẽ xuất hiện) cho các môn đệ biết (Matthew 24-25). Ngài trở lại nghỉ ngơi ở núi này hàng đêm, sau khi giảng dạy trong Đền thờ Jerusalem (ban ngày) (phúc âm Luke 21:37), và cũng lại tới vườn Getsemani dưới chân núi này, trong đêm bị Judas bội phản, nộp Ngài cho người Do Thái (Matthew 26:39).

Tân Ước thuật lại việc chúa Giêsu và các môn đệ đã cùng nhau ca hát như thế nào - "sau khi họ đã hát xong thánh vịnh, thầy trò đi tới núi Ôliu" (phúc âm Matthew 26:30). Chúa Giêsu cũng lên trời từ núi Ôliu như được ghi trong sách Công vụ Tông đồ 1:9-12.

Sự chiếm đóng của Jordan (1948–1967)[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Jordan đã chiếm Đông Jerusalem, trong đó có núi Ôliu, cho tới cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel 1967. Trong thời gian này, Jordan đã sáp nhập phần thành phố họ chiếm vào lãnh thổ của mình, nhưng chỉ được vương quốc AnhPakistan công nhận. Jordan đã tự buộc mình phải cho phép "tự do lui tới các nơi linh thiêng, cơ sở văn hóa và sử dụng các nghĩa trang trên núi Ôliu" trong khuôn khổ của Hiệp định đình chiến 1949 ngày 3 tháng 4 (1949), tuy nhiên họ đã không tôn trọng nghĩa vụ này.

Từ cuối năm 1949 – và suốt thời kỳ Jordan chiếm đóng – các cư dân Ả Rập đã nhổ các bia mộ lên và cày đất ở các nghĩa trang (trên núi), trong khi các bộ xương (tử thi) bị quăng rải rác khắp nơi. Ước tính có khoảng 38.000 bia mộ bị đập tan hoặc hư hại. Các bia mộ người Do Thái trên núi, cả cũ và mới, được người Jordan sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, trong đó có việc dùng để lát sàn các nhà xí, và làm đá lát đường. Trong thời kỳ này, bốn con đường được lát đá qua các nghĩa trang, trong quá trình phá hủy các ngôi mộ, kể cả của những người nổi tiếng. Các tòa nhà, trong đó có khách sạn Liên lục địatrạm khí đốt, được dựng lên bên trên các ngôi mộ cũ.[10]

Ngày nay[sửa | sửa mã nguồn]

Khu vực Ả Rập lân cận của thành phố at-Tur nằm ở đỉnh núi. Các điểm nổi bật trên núi Ôliu gồm có Yad Avshalom, Mộ của Zechariah, Nhà thờ mọi Dân tộc (Church of all Nations), nhà thờ thánh Maria Madalena, nhà thờ Chúa khóc, vườn Gethsemani, mộ Đức Trinh nữ Maria, nhà nguyện Chúa lên trời (Jerusalem), nhà thờ Kinh Lạy Cha, khách sạn Liên lục địa, và công viên Orson Hyde. Ở chân sườn dốc là vườn quốc gia Emek TzurimTemple Mount Antiquities Salvage Operation.[11]

Năm 2010, nghĩa trang Do Thái trên núi Ôliu thường trở thành mục tiêu phá hoại của người Ả Rập, họ bôi trát phân người lên các ngôi mộ, bôi các vết hắc ín, sơn và vẽ các hình tỏ lòng thù ghét, quăng rác cùng gạch vữa vụn trên nền đất và đập vỡ bia mộ bằng búa. Các người đưa tang cũng bị hành hung, các xe đậu ở sân bên cạnh ngôi trường Ả Rập cũng bị thường xuyên ném đá. Trong một vụ va chạm, một gia đình đã bị các người Ả Rập tấn công bằng đá, các cục xi măng, bàn ghế khiến cho 2 người phải nằm bệnh viện. Trong một vụ va chạm khác trong năm 2010, chỉ trong một ngày 23 bia mộ đã bị đập tan.[12][13][14]

Các ngôi mộ nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Các Rabbi[sửa | sửa mã nguồn]

Hasidic Rebbes[sửa | sửa mã nguồn]

Các Rabbi trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhân vật văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhân vật chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c This is Jerusalem Menashe Har-El, Canaan Publishing House, Jerusalem, 1977, p.117
  2. ^ Hull, Edward (1885). Mount Seir, Sinai and Western Palestine. Richad Bently and Son, London. tr. 152.
  3. ^ a b Har-el, Menashe (1977). This is Jerusalem. Jerusalem: Canaan. tr. 120–123.
  4. ^ Nom de Deu, J. (1987). Relatos de Viajes y Epistolas de Peregrinos Jud.os a Jerusalén. Madrid. tr. 82.
  5. ^ City of Stone, Meron Benvenisti
  6. ^ Bronner, Ethan; Kershner, Isabel (ngày 10 tháng 5 năm 2009). “Parks Fortify Israel's Claim to Jerusalem”. The New York Times. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2010.
  7. ^ “Fact Sheets #8 - Jerusalem”. Jewish Virtual Library. ngày 19 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2007.
  8. ^ Alon, Amos (1995). Jerusalem: Battlegrounds of Memory. New York: Kodansha Int'l. tr. 75. ISBN 1568360991. After 1967, it was discovered that tombstones had been removed from the ancient cemetery to pave the latrines of a nearby Jordanian army barrack.
  9. ^ The good jailer - Haaretz - Israel News[liên kết hỏng]
  10. ^ Nadav Shragai, The Mount of Olives under Jordanian Rule Lưu trữ 2012-04-01 tại Wayback Machine, JCPA 2009 and references
  11. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2010.
  12. ^ Mount of Olives security beefed up to stop vandalism, Jerusalem Post 17-12-2009
  13. ^ Has Israel abandoned the Mount of Olives?, Jerusalem Post 15-05-2010
  14. ^ Vandalism returns to Mount of Olives cemetery, Ynet News 12-05-2010

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]