Nagatsuki (tàu khu trục Nhật) (1926)

Tàu khu trục Nhật Bản Nagatsuki, tháng 4 năm 1927
Lịch sử
Nhật Bản
Tên gọi Tàu khu trục số 30
Xưởng đóng tàu Xưởng đóng tàu Ishikawajima
Đặt lườn 16 tháng 4 năm 1926
Hạ thủy 6 tháng 10 năm 1926
Hoạt động 30 tháng 4 năm 1927
Đổi tên Tàu khu trục số 30 thành Nagatsuki: 1 tháng 8 năm 1928
Xóa đăng bạ 1 tháng 11 năm 1943
Số phận Bị mất ngày 7 tháng 7 năm 1943 gần Kolombangara 08°02′N 157°12′Đ / 8,033°N 157,2°Đ / -8.033; 157.200
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Mutsuki
Trọng tải choán nước
  • 1.315 tấn (tiêu chuẩn);
  • 1.445 tấn (đầy tải)
Chiều dài
  • 97,54 m (320 ft) mực nước
  • 102,72 m (337 ft) chung
Sườn ngang 9,16 m (30 ft)
Mớn nước 2,96 m (9 ft 8 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × Turbine hơi nước Escher Wyss AG Zoelly
  • 4 × nồi hơi ống nước Ro-Gō Kampon
  • 2 × trục
  • công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)
Tốc độ 69 km/h (37,25 knot)
Tầm xa
  • 6.700 km ở tốc độ 26 km/h
  • (3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)
Thủy thủ đoàn 154
Vũ khí

Nagatsuki (tiếng Nhật: 長月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp Mutsuki của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được xem là tiên tiến vào lúc đó, những con tàu này đã phục vụ như những tàu khu trục hàng đầu của Nhật trong những năm 1930, nhưng được xem là đã lạc hậu vào lúc Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra;[1] dù sao lớp Mutsuki vẫn được giữ lại ở tuyến đầu nhờ tầm xa hoạt động và kiểu ngư lôi mạnh mẽ mà chúng được trang bị.[2] Nagatsuki đã tham gia nhiều hoạt động khác nhau cho đến khi bị mất ngày 7 tháng 7 năm 1943 gần Kolombangara.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Việc chế tạo lớp tàu khu trục Mutsuki được chấp thuận như một phần của chương trình phát triển Hải quân Đế quốc Nhật Bản sau khi Hiệp ước Hải quân Washington có hiệu lực, và chúng được đặt hàng trong năm tài chính 1923.[3] Lớp tàu này là một phiên bản nối tiếp và cải biến dựa trên các lớp tàu khu trục lớp MinekazeKamikaze trước đó, vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[4] Nagatsuki được đặt lườn tại xưởng đóng tàu IshikawajimaTokyo vào ngày 16 tháng 4 năm 1925, được hạ thủy vào ngày 6 tháng 10 năm 1926 và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 4 năm 1927.[5] Thoạt tiên chỉ được gọi đơn giản là "Tàu khu trục số 30" (第三十号駆逐艦, Dai-30-Gō Kuchikukan), nó được đổi tên thành Nagatsuki vào ngày 1 tháng 8 năm 1928.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối những năm 1930, Nagatsuki tham gia các hoạt động trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, hỗ trợ những cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên khu vực Trung và Nam Trung Quốc và tham gia xâm chiếm Đông Dương.

Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Nagatsuki nằm trong thành phần Hải đội Khu trục 22 thuộc Phân hạm đội Khu trục 5 của Hạm đội 3 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và được bố trí từ Quân khu Bảo vệ Mako tại quần đảo Pescadores trong thành phần của lực lượng Nhật Bản tham gia trận Philippines, trong đó nó giúp hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Nhật Bản lên vịnh Lingayen và tại Aparri.[6] Trong khi ở lại vịnh Lingayen, Nagatsuki bị hư hại nhẹ bởi các cuộc tấn công bắn phá của máy bay thuộc Không lực Lục quân Hoa Kỳ, làm một người chết và năm người bị thương.

Vào đầu năm 1942, Nagatsuki được phân công hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Singora, MalayaĐông Dương cũng như đến Java vào tháng 2. Từ ngày 10 tháng 3 năm 1942, Nagatsuki cùng Phân hạm đội Khu trục 5 được bố trí về Hạm đội Khu vực Đông Nam hộ tống các đoàn tàu vận tải từ Singapore đến to PenangRangoon. Nó quay trở về Xưởng hải quân Sasebo để sửa chữa vào ngày 19 tháng 9, rồi lại gia nhập hạm đội vào ngày 9 tháng 11, tiếp nối các nhiệm vụ hộ tống.

Lườn tàu bị phá hủy của Nagatsuki tại Kolombangara, ảnh chụp ngày 8 tháng 5 năm 1944.

Vào cuối tháng 1 năm 1943, Nagatsuki hộ tống chiếc tàu chở thủy phi cơ Kamikawa Maru từ Sasebo đi ngang qua TrukRabaul để đến Shortland, và ở lại đó trong suốt tháng 2 để bảo vệ cho cuộc triệt thoái lực lượng Nhật Bản trú đóng trên đảo Guadalcanal, cũng như để hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Palau, WewakRabaul. Nagatsuki được phân về Hạm đội 8 Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt căn cứ tại Rabaul vào ngày 25 tháng 2 năm 1943, và được phân công nhiều chuyến đi "Tốc hành Tokyo" vận chuyển binh lính trong suốt khu vực quần đảo Solomon cho đến cuối tháng 6, đặc biệt là đến KolombangaraTuluvu. Vào ngày 4-5 tháng 7, trong một chuyến đi đến Kolombangara, Nagatsuki đã đụng độ với tàu khu trục Mỹ USS Strong, và đã giúp đánh chìm nó bằng ngư lôi.

Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, trong trận chiến vịnh Kula, Nagatsuki bị bắn trúng một phát đạn pháo 152 mm (6 inch). Chỉ huy của nó, Thiếu tá Hải quân Tameo Furukawa, cho mắc cạn con tàu gần cảng Bambari, tọa độ 08°02′N 157°12′Đ / 8,033°N 157,2°Đ / -8.033; 157.200 thuộc Kolombangara, để đổ bộ binh lính. Sau đó, mặc dù có sự trợ giúp của tàu khu trục chị em Satsuki, nó vẫn không thế nào nổi trở lại được; nên nó bị máy bay Đồng Minh tấn công và phá hủy vào ngày hôm sau 6 tháng 7. Thủy thủ đoàn bị tổn thất với tám người chết và mười ba người bị thương, nhưng những người còn sống sót sau đó đã đi bộ đến được căn cứ của Lục quân Nhật tại Vila thuộc Kolombangara.[7]

Nagatsuki được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 10 năm 1943.[5]

Danh sách thuyền trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Jones, Daniel H. (2003). “IJN Minekaze, Kamikaze and Mutsuki class Destroyers”. Ship Modeler's Mailing List (SMML). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
  2. ^ Evans. Kaigun: Strategy, Tactics, and Technology in the Imperial Japanese Navy
  3. ^ Globalsecurity.org, IJN Mutsuki class destroyers
  4. ^ Howarth, The Fighting Ships of the Rising Sun.
  5. ^ a b Nishidah, Hiroshi (2002). “Mutsuki class 1st class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2010.
  6. ^ Morison. The Rising Sun in the Pacific 1931 - tháng 4 năm 1942.
  7. ^ Nevitt, Allyn D. (1997). “IJN Nagatsuki: Tabular Record of Movement”. Long Lancers. Combinedfleet.com.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Brown, David (1990). Warship Losses of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-914-X.
  • Howarth, Stephen (1983). The Fighting Ships of the Rising Sun: The Drama of the Imperial Japanese Navy, 1895–1945. Atheneum. ISBN 0-689-11402-8.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. US Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
  • Watts, Anthony J (1967). Japanese Warships of World War II. Doubleday. ASIN B000KEV3J8.
  • Whitley, M J (2000). Destroyers of World War Two: An International Encyclopedia. London: Arms and Armour Press. ISBN 1-85409-521-8.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]