Nguyễn Tấn (quan nhà Nguyễn)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Tấn
阮縉
Tên chữTử Vân
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
1822
Nơi sinh
Quảng Ngãi
Mất1871
Giới tínhnam
Gia quyến
Hậu duệ
Nguyễn Thân
Quốc tịchĐại Nam
Thời kỳnhà Nguyễn

Nguyễn Tấn (阮縉, 1822-1871), tự là Tử Vân, là một võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Ông thành danh là nhờ công đánh dẹp các cuộc nổi dậy của các dân tộc ở Đá Vách thuộc phía tây tỉnh Quảng Ngãi (Việt Nam) suốt sáu năm liền.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Tấn sinh tại làng Thạch Trụ thuộc huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Trước đây, tổ tiên ông ở Chương Nghĩa (nay là huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi), sau mới dời đến ở làng Thạch Trụ. Chưa tra được cha Nguyễn Tấn là ai, chỉ biết nội ông là Nguyễn Công Tuy, làm Tri phủ Kiến Xương (Thái Bình), vì có lỗi phải miễn chức.

Thuở nhỏ, Nguyễn Tấn chăm học. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông thi đỗ Cử nhân, được bổ Giáo thụ, rồi trải qua chức Tri huyện, Tri phủ. Năm Tự Đức thứ 3 (1855), ông làm Giám sát ngự sử, đàn hặc nhiều việc hợp ý vua.

Gặp lúc biên giới Bắc Hà không yên, ông được sung chức Bang biện Hưng Yên tỉnh vụ. Đến đó, ông giải vây được Đường Hào [1], nên được làm Thự án sát sứ Thái Nguyên.

Năm Tự Đức thứ 17 (1864), lại gặp lúc các dân tộc ở Đá Vách thuộc phía tây tỉnh Quảng Ngãi nổi dậy, Nguyễn Tấn hay tin liền dâng sớ xin đi đánh dẹp. Nhà vua khen ngợi, thăng cho ông làm Thị độc, sung chức Tĩnh Man tiễu phủ sứ. Đến quân thứ, ông cho đặt thêm đồn bảo, khích lệ tướng sĩ rồi dốc hết lực lượng đánh phá các căn cứ của quân nổi dậy. Khiếp sợ, các sách Man thuộc cơ Thanh Bồng, Lang Lôi, Lang Y, Nước Trang, Nước Lũng, Nước Nhĩ... đều lần lượt ra đầu hàng hoặc trốn xa. Vừa tiểu trừ, vừa phủ dụ, "ác Man" (gọi theo sử nhà Nguyễn) đều dẹp được hết. Lập đại công, Nguyễn Tấn được thưởng một tấm khánh bằng vàng tía khắc bốn chữ: Liêm, Bình, Cần, Cán; được thăng chức Binh bộ Tả thị lang, nhưng vẫn làm nhiệm vụ cũ.

Năm Tự Đức thứ 23 (1870), việc quân ở Bắc Kỳ luôn thất lợi, Nguyễn Tấn xin ra giúp. Xét không có người thay ông để lo việc Đá Vách, nhà vua không cho đi.

Năm Tự Đức thứ 24 (1871), Nguyễn Tấn ốm chết, được truy tặng Binh bộ Tham tri, ban lễ tế và xét dùng các con.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối đời, Nguyễn Tấn đã tổng kết công trận của mình trong cuốn Vũ Man tạp lục thư. Sách được khắc in năm 1898 dưới triều vua Thành Thái.

Nhận xét[sửa | sửa mã nguồn]

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép:

Nguyễn Tấn vốn người tài năng trí thức, dũng cảm thao lược. Viên quận công Trương Đăng Quế thường khen ông là khi lâm sự biết xử trí. Việc trở về dẹp Man, người ta nói là có hai điều khó: một là rừng sâu khí nặng là điều kỵ của việc hành quân. Hai là tính người Man bất thường, đói thì đến, no thì đi, vỗ về khó. Thế mà trong sáu năm, năm nào đánh dẹp cũng dễ dàng cả...
Ngày Tấn mất những người Man được tin, cùng nhau than tiếc. Tướng sĩ sáu cơ và người trong châu dựng đền ở Hoành Sơn để thờ. Cung bảo Nguyễn Chính và Tham chính Lê Lượng Bạt làm bài minh (khắc lên bia đá) để nêu công đức...
...Tấn ốm chết, vua thấy ông làm quan thanh bạch nhà nghèo, cấp cho mẹ ông mỗi tháng ba quan tiền, ba phương gạo, sau lại cấp thêm 50 quan để làm ma...[2]

Tuy nhiên theo nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Phan Quang, khi Nguyễn Tấn giữ chức Tĩnh Man tiễu phủ sứ, ông đã không từ một thủ đoạn nào để trấn áp phong trào Đá Vách, từ việc dùng vàng bạc để gây chia rẽ và hận thù giữa các bộ tộc đến những hình phạt tàn khốc (chặt đầu, lột da, phơi nắng, cắt tai, khắc dấu vào mặt...) Trong quá trình đàn áp, bản thân Nguyễn Tấn cũng chấp chiếm nhiều ruộng đất vùng này. Sang đầu thế kỷ 20, con cháu ông Tấn còn thừa hưởng là 215 mẫu ruộng hương hỏa [3].

Con[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Tấn có ba người con:

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Đường Hào đời nhà Lê thuộc phủ Thượng Hồng, trấn Kinh Bắc, sau thuộc phủ Bình Giang, tỉnh Bắc Ninh. Vào năm 1886, đời vua Đồng Khánh đổi tên là huyện Mỹ Hào. Năm 1891, Mỹ Hào chuyển thuộc tỉnh Hưng Yên. Năm 1979, hợp nhất một phần với huyện Văn Giang thành huyện Mỹ Văn, nay lại đổi lại là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
  2. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện, tr. 775-776.
  3. ^ Việt Nam thế kỷ 19 (1802-1884), tr. 228.

Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]