Polypterus ornatipinnis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cá chình vây lòe
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Phân lớp (subclass)Chondrostei
Bộ (ordo)Polypteriformes
Họ (familia)Polypteridae
Chi (genus)Polypterus
Loài (species)P. ornatipinnis
Danh pháp hai phần
Polypterus ornatipinnis
Boulenger, 1902[1]

Cá chình vây lòe (tên khoa học Polypterus ornatipinnis) là một loài cá có xương sống trong hồ Tanganyika và sông Congo trong lưu vực Trung và Đông Phi. Nó gợi nhớ đến một số loài khủng long.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cá chình vây lòe dài 60 cm. Chúng có tên đó bởi vây và thân của chúng đầy những đốm lòe loẹt. Đây là một loài cá châu Phi hiện đại, sở hữu phổi để hít thở không khí và các vây ngắn tũn có thể kéo lê thân trên cạn. Cá chình vây lòe có nhiều đặc điểm tương tự như những gì quan sát được ở hóa thạch của các động vật 4 chân có xương sống nguyên thủy. Chúng rất dễ nhảy và có khả năng sống không cần nước trong một thời gian cho đến khi vảy của chúng không còn ẩm nữa, điều này giúp chúng sau khi thoát ra khỏi biển có cơ hội tìm tới vùng nước tự do. Cá chình vây lòe lớn lên trên cạn khác rất nhiều so với các cá thể cùng loài sinh trưởng dưới nước. Chẳng hạn như, cá nuôi trên cạn nâng đầu cao hơn, giữ các vây sát gần cơ thể chúng hơn, bước đi nhanh hơn, quẫy đuôi và ve vẩy các vây ít thường xuyên hơn cá sinh trưởng dưới nước. Cá nuôi trên cạn cũng trải qua những thay đổi về bộ xương và hệ thống cơ, dường như mở đường cho các thay đổi về hành vi của chúng. Nhìn chung, những biến đổi này giúp chúng di chuyển hiệu quả hơn trên cạn. Cá chình vây lòe dễ uốn nắn trong quá trình phát triển. Tính mềm dẻo này là yếu tố giúp loài cá này có thể lớn lên rất khác, phụ thuộc vào môi trường sống của chúng.

Thức ăn

Là loài cá dữ ăn thịt, cá chình vây lòe có thể ăn được các loại thức ăn từ tôm, cá, ếch nhái, côn trùng, giáp xác hay nhuyễn thể. Dù có nguồn thức ăn đa dạng trong tự nhiên, nhưng giống như nhiều loài cá quý hiếm khác, chúng từng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, do môi trường sống bị xâm phạm. Sau này, cá chình vây lòe được bảo vệ thông qua dự án phát triển nuôi nhốt, và từ đó trở thành giống cá cảnh được ưa thích trên thế giới.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Evans, Sean. Polypterus ornatipinnis. Polypterus.info. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2008.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]