Quách Thánh Thông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quách Thánh Thông
郭聖通
Hán Quang Vũ Đế Hoàng hậu
Hoàng hậu nhà Hán
Tại vị2641
Tiền nhiệmHiếu Bình Vương hoàng hậu
Kế nhiệmQuang Liệt Âm hoàng hậu
Thông tin chung
Sinh1
Cảo huyện, Chân Định
Mất22 tháng 7, 52
Phái quốc
An tángMang Sơn (邙山)
Phối ngẫuHán Quang Vũ Đế
Lưu Tú
Hậu duệ
Thân phụQuách Xương
Thân mẫuQuách chủ

Quách Thánh Thông (chữ Hán: 郭聖通; 1 - 52), còn gọi Quang Vũ Quáng hoàng hậu (光武郭皇后) hay Phế hậu Quách thị (废后郭氏), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú.

Trong lịch sử Trung Quốc, Lưu Tú là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Đông Hán, do vậy Quách Thánh Thông cũng là Hoàng hậu đầu tiên của thời kỳ này. Tuy là Hoàng hậu đầu tiên nhưng bà kết hôn với Quang Vũ Đế sau khi ông đã cưới Âm Lệ Hoa. Quang Vũ Đế đăng cơ, Quách thị và Âm thị đều được phong Quý nhân vì Quang Vũ Đế chưa quyết định được ai làm Hoàng hậu qua sự việc nhặp nhằng này. Trước tình thế khi ấy cộng thêm sự tiến cử của chính Âm quý nhân, Quang Vũ Đế đã lập Quách thị làm Hoàng hậu.

Về sau Quách Thánh Thông thất sủng và bị phế, Âm Lệ Hoa trở thành Kế hậu một cách đầy tranh cãi. Tuy bị phế, Quang Vũ Đế vẫn tôn trọng Quách hậu và cố gắng bù đắp bằng cách phong bà làm Phiên quốc Thái hậu, tiếp tục hậu đãi cả gia tộc kể cả khi Quách hậu qua đời. Đây được xem là sự thiện đãi hiếm hoi dành cho một Phế hậu trong lịch sử nhà Hán lẫn toàn bộ Trung Quốc.

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất thân[sửa | sửa mã nguồn]

Quách Thánh Thông không rõ năm sinh, sử sách ghi bà xuất thân hiển hách tại Cảo huyện, Chân Định (真定; nay là Cảo Thành thuộc thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc). Gia tộc của họ nội bà là hậu duệ của nước Quách thời cổ đại, nhiều đời là địa chủ.

Cha bà là Quách Xương (郭昌), là địa chủ lớn tại Chân Định, đã từng đem mấy trăm vạn điền trạch tài sản nhường cho dị mẫu đệ đệ, bởi vậy đã được người trong quận tán dương đức độ. Mẹ bà là Lưu thị, Chân Định vương tộc xuất thân, con gái của Chân Định Cung vương Lưu Phổ (劉普), hậu duệ hoàng gia Tây Hán, xem như là một hậu duệ thế hệ thứ sáu của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Khi Lưu phu nhân kết hôn với Quách Xương, bà được gọi là Quách chủ (郭主), sinh ra Quách Thánh Thông cùng con trai Quách Huống (郭況). Quách Xương qua đời sớm, Quách Chủ nuôi dạy 2 con, dù là hậu duệ hoàng thất song bà vẫn giữ gìn tiết kiệm, được gọi là "Có mẫu nghi chi đức"[1].

Sau cái chết của Lưu Phổ năm 7 TCN, người cậu của Quách Thánh Thông, cũng là anh cả của Quách chủ là Lưu Dương (劉楊) thừa hưởng tước Chân Định vương. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, ông bị giáng chức tước, và năm sau, giáng chức thành một người bình thường.

Vào khoảng năm 23, nhà Tân của Vương Mãng đổ nát, Lưu Dương tăng cường nổi loạn. Hán Canh Thủy Đế Lưu Huyền lập nên triều đình của riêng mình tại Lạc Dương. Gia tộc họ Lưu có danh tiếng, quyền lực cha truyền con nối tại Chân Định, nhiều người quy phục theo Lưu Dương, và sau đó ông đã giành lại tước hiệu Chân Định vương. Lưu Dương trấn giữ Chân Định, có 10 vạn quân và ảnh hưởng rất lớn đối với cục diện Hà Bắc.

Kết hôn với Lưu Tú[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu Tú là dòng dõi xa của nhà Hán và từng tham gia Khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền Vương Mãng. Sau đó, Lưu Tú đã ly khai khỏi chính quyền mới của Lục Lâm và tiếp tục khởi nghĩa chống Vương Mãng, tiêu diệt các thế lực cát cứ khắp nơi.

Năm Canh Thủy thứ 2 (24), để củng cố lực lượng quân đội trong chiến dịch tiêu diệt Vương Lang, nhờ sự thuyết phục của Lưu Thực, một người cùng khởi nghĩa chống Vương Mãng cùng với Lưu Tú, Chân Định vương Lưu Dương đồng ý gả người cháu gái là Quách Thánh Thông cho Lưu Tú để liên quân. Sử sách gọi việc này là "Lưu Tú lấy vợ mượn quân". Khi đó, Lưu Tú đã kết hôn với người vợ đầu là Âm Lệ Hoa, cả 2 người quen biết từ thuở thiếu thời và cùng sinh trưởng tại quận Nam Dương (gần tương ứng với Nam Dương, Hà Nam ngày nay) nên tình cảm rất đỗi sâu đậm.

Năm Canh Thủy thứ 3 (25), Lưu Tú thống nhất toàn thiên hạ với danh nghĩa kế tục nhà Hán. Ông đăng cơ là Hoàng đế, tức Hán Quang Vũ Đế, đổi niên hiệu là Kiến Vũ, lập ra triều đại nhà Đông Hán kéo dài gần 200 năm. Quách Thánh Thông cùng nguyên phối Âm lệ Hoa của Quang Vũ Đế cùng được phong cấp Quý nhân[2], nhưng Lưu Tú vẫn cố ý phong cho Âm Thức, huynh trưởng của Âm Lệ Hoa làm Âm Hương hầu (陰鄉侯), nhằm để địa vị họ Âm cao hơn họ Quách[3]. Cùng năm đó, Quách Thánh Thông sinh con trai đầu lòng là Lưu Cương.

Nhập cung Hán[sửa | sửa mã nguồn]

Sách lập Hoàng hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kiến Vũ thứ 2 (26), Quang Vũ Đế chuẩn bị sách phong Hoàng hậu. Âm Lệ Hoa là nguyên phối thê tử, được Quang Vũ Đế sủng ái hơn cả, bản thân Quang Vũ Đế tán dương Âm thị là "Nhã tính khoan nhân, có đức độ mẫu nghi", xứng với Hậu vị[4][5], nhưng bản thân Âm thị khi đó chưa hạ sinh Hoàng tử nên đã khước từ vị trí Hoàng hậu và ủng lập Quách quý nhân[6][7]. Trước thái độ khiêm nhường của Âm Lệ Hoa, Quang Vũ Đế đã lập Quách Thánh Thông làm Hoàng hậu, và lập con trai Lưu Cương của bà làm Hoàng thái tử.

Cũng trong năm này, Chân Định vương Lưu Dương dường như bất bình trước sự trì hoãn lập Hậu của Quang Vũ Đế, quyết định nổi loạn, sau đó bị giết. Theo lẽ thường, Quách hoàng hậu và gia tộc họ Quách sẽ bị liên lụy, thế nhưng khi này nhà Đông Hán chưa ổn định, Quang Vũ Đế không thể tùy tiện ra quyết định tận diệt nên vẫn hết sức thiện đãi Quách hậu[8][9].

Quáng hoàng hậu đã hạ sinh 5 con trai gồm: Hoàng trưởng tử Thái tử Lưu Cương, Hoàng nhị tử Lưu Phụ, Hoàng ngũ tử Lưu Khang, Hoàng thất tử Lưu Diên và Hoàng thập tử Lưu Yên, một con số khá lớn so với các Hoàng hậu nhà Hán. Mặc dù sinh nhiều con nhưng năm tháng trôi qua Quang Vũ Đế vẫn mặn nồng với người vợ đầu Âm quý nhân và lạnh nhạt với Quách hoàng hậu. Khoảng từ năm Kiến Vũ thứ 9 (33), Quách hoàng hậu được ghi nhận hoàn toàn thất sủng[10]. Có vị Thượng thư lệnh là Thân Đồ Cương (申屠刚) nhiều lần dâng sớ xin Quang Vũ Đế để Hoàng thái tử Lưu Cương đến Đông Cung tiếp thu trách nhiệm cùng sự dạy bảo, thì liền bị Quang Vũ Đế trách cứ, biếm truất đi chức vị[11].

Năm Kiến Vũ thứ 9 (33), Đặng phu nhân và Âm Hân bị đạo phỉ sát hại. Quang Vũ Đế đã rất thương tiếc họ, phong tước hầu cho Âm Tựu và cũng cố phong tước hầu cho Âm Hưng, song Âm Hưng đã khiêm tốn từ chối và còn bảo Âm quý nhân phải luôn khiêm tốn và không tìm kiếm danh vọng cho người thân của bà[12]. Để an ủi Âm Lệ Hoa, Quang Vũ Đế nói Đại tư không hạ chiếu thư rằng:

Âm quý nhân là phi tần, gia quyến bị giết, Hoàng đế viết chiếu thư an ủi cũng xem như hợp tình hợp lý. Thế nhưng trong chiếu thư lại trực tiếp nói Âm Lệ Hoa có khí độ Mẫu nghi, việc Quách Thánh Thông được lập được khẳng định do "Âm thị cố ý nhường lại", điều này không chỉ thể hiện tâm niệm luôn muốn lập Âm Lệ Hoa làm Hậu của Quang Vũ Đế, mà còn là cú bạt tai giáng thẳng vào ngôi vị Hoàng hậu của Quách Thánh Thông. Văn học gia Hồng Mại (洪迈) thời Nam Tống ghi lại chuyện này trong "Dung trai tùy bút", đã đánh giá rằng từ khi Hán Quang Vũ Đế hạ đạo sắc chỉ này, Quách hậu đã vĩnh viễn không còn yên ổn trên Hậu vị được nữa[14].

Vào năm Kiến Vũ thứ 13 (37), đất Thục được bình định, Quang Vũ Đế đại phong công thần ngoại thích, nhưng trong đó không có ngoại thích họ Quách của Hoàng hậu. Em trai Quách hậu là Quách Huống mãi đến năm Kiến Vũ thứ 14 (38) mới thăng nhậm "Thành môn Giáo úy" (城门校尉). Năm Kiến Vũ thứ 15, ngoại thích họ Âm cùng họ Phàn (thân tộc của mẹ Quang Vũ Đế là Phàn Nhàn Đô) được sắc chỉ ân phong, lại tiếp tục gạt họ Quách ra một bên. Quang Vũ Đế phong con trưởng của Âm quý nhân là Lưu Dương làm Đông Hải công (东海公), nước Đông Hải gồm 23 huyện, là chư hầu quốc lớn nhất trong số các phiên quốc của chúng hoàng tử[15][16]. Trước sự kiện Hoàng hậu thất sủng, dòng họ Quách thị cũng bị gạt sang một bên một cách trắng trợn, luôn bị xếp sau ngoại thích họ Âm, khiến cho Hoàng hậu vô cùng bất mãn.

Phế làm Vương thái hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kiến Vũ thứ 17 (41), Quang Vũ Đế Lưu Tú lấy lý do: 「Hoài thế oán đỗi, sổ vi giáo lệnh, bất năng phủ tuần tha tử, huấn trường dị thất; 懷勢怨懟,數違教令,不能撫循他子,訓長異室」, ra chỉ phế truất Quách hậu và lập Âm quý nhân làm Hoàng hậu thay thế.

Tuy bị phế nhưng Quách Thánh Thông may mắn không chịu cảnh bị giam cầm tại lãnh cung như các Phế hoàng hậu trong lịch sử. Có lẽ Quang Vũ Đế còn niệm tình phu thê và cảm thấy áy náy đối với Quách hậu nên luôn cố gắng thiện đãi bà, cũng như không ngừng trọng dụng gia tộc Quách thị. Hoàng đế phong con trai Lưu Phụ của Quách Thánh Thông làm Trung Sơn vương (中山王), đặc biệt tấn phong cho Quách thị làm Trung Sơn Vương thái hậu (中山王太后), một tước hiệu trước nay chưa từng dùng cho phi tần của Hoàng đế đang còn sống, và về sau cũng không được áp dụng trong trường hợp tương tự.

Cùng năm đó, Quách Huống, em trai của Quách hậu được phong làm Dương An hầu (阳安侯), ân phong thực ấp và nhiều của cải đến mức sự giàu có được xem là mỏ vàng của người dân Lạc Dương. Các anh em trong họ Quách như Quách Cách (郭竟) được phong Tân Thê hầu (新郪侯), rồi đến Đông Hải tướng (东海相). Một người em khác của Quách Thánh Thông là Quách Khuông (郭匡) cũng được phong Phát Càn hầu (发干侯), rồi đến Thái trung đại phu (太中大夫). Thúc phụ của Quách hậu là Quách Lương (郭梁) không con mất sớm nên lấy một người trong tộc thông gia là Trần Mậu (陈茂) làm con thừa tự, cũng đặc cách phong Hầu[17].

Không nỡ lòng nào phế truất cả mẹ lẫn con, Quang Vũ Đế ban đầu vẫn để Lưu Cương làm Hoàng thái tử. Tuy nhiên, Thái tử Lưu Cương nhận thấy địa vị của mình không vững, vì mẹ ông đã bị phế truất, từ vị trí "Đích trưởng tử" bây giờ thành "Thứ trưởng tử", danh không chính ngôn không thuận, nên đã nghe thầy học Chất Uẩn (郅恽) khuyên can, nhiều lần chủ động xin Quang Vũ Đế cho từ bỏ ngôi vị[18][19]. Đến năm Kiến Vũ thứ 19 (43), mùa xuân, Đông Hải vương Lưu Dương bình định Thiền vu Đan Thần (单臣), công lao hiển hách[20]. Tháng 6 cùng năm, Quang Vũ Đế chấp thuận lời thỉnh cầu của Lưu Cương, phong Lưu Dương làm Thái tử thay thế, đổi tên húy của Lưu Duơng thành Lưu Trang (劉莊)[21].

Cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kiến Vũ thứ 20 (44), con trai Phế hậu Quách thị là Trung Sơn vương Lưu Phụ chuyển phong ấp của mình thành Phái quốc, do đó tước vị đổi sang Phái vương (沛王), tức chủ nước Phái (nay là một huyện thuộc địa cấp thị Từ Châu, tỉnh Giang Tô). Trung Sơn Vương thái hậu cải xưng làm Phái Thái hậu (沛太后), và chuyển sang sinh sống tại Phái quốc cùng con mình.

Năm Kiến Vũ thứ 26 (50), mẹ của Quách Thánh Thông là Quách chủ Lưu thị qua đời, được táng tại Lạc Dương. Quang Vũ Đế đã đích thân an táng cho Quách chủ một cách trọng thể, dẫn các quan lại cùng đến đưa tiễn. Ông còn truy phong cho cha Quách hậu là Quách Xương tước Dương An Tư hầu (阳安思侯), cải táng một cách danh dự từ phần mộ cũ ở Chân Định đến hợp táng cùng Quách chủ ở Lạc Dương[22].

Năm Kiến Vũ thứ 28 (52), tháng 6, ngày Đinh Mão, Phái Thái hậu Quách Thánh Thông qua đời, được an táng với danh dự hoàng tộc nhưng không phải với địa vị Hoàng hậu. Bà được táng ở vùng phía Bắc Mang Sơn (邙山), là hướng Bắc so với Nguyên lăng (原陵) - lăng tẩm chôn cất Hán Quang Vũ Đế cùng Quang Liệt Âm hoàng hậu. Sau khi Quách hậu qua đời, nhà họ Quách vẫn như cũ được biệt đãi. Dưới thời Hán Minh Đế, lúc đó nhà họ Âm, họ Phàn, họ Quách cùng Mã thị được xưng là Tứ tính Tiểu hầu (四姓小侯)[23].

Hậu duệ[sửa | sửa mã nguồn]

Phế hậu Phái vương Thái hậu Quách Thánh Thông có với Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú tổng cộng 5 hoàng tử. Bao gồm:

  1. Lưu Cương [劉疆], Hoàng trưởng tử của Hán Quang Vũ Đế. Được lập Thái tử năm Kiến Vũ thứ 2 (26), phế năm thứ 19 (43), sau làm Đông Hải vương (东海王), mất năm Vĩnh Bình nguyên niên (58) thời em trai Hán Minh Đế. Thụy là Đông Hải Cung vương (东海恭王).
  2. Lưu Phụ [劉輔], hoàng tử thứ 2 của Hán Quang Vũ Đế, thụy Phái Hiến vương (沛献王). Ban đầu được phong Trung Sơn vương (中山王, năm 41), sau đổi thành Phái vương (沛王, năm 43), mất năm Nguyên Hòa nguyên niên (84) thời Hán Chương Đế, thụy là Hiến (献).
  3. Lưu Khang [劉康], hoàng tử thứ 5 của Hán Quang Vũ Đế, thụy Tế Nam An vương (济南安王). Mất năm Vĩnh Nguyên thứ 9 (97) thời Hán Hòa Đế.
  4. Lưu Diên [劉延], hoàng tử thứ 7 của Hán Quang Vũ Đế, thụy Phụ Lăng Chất vương (阜陵质王). Mất năm Vĩnh Nguyên nguyên niên (89) thời Hán Hòa Đế.
  5. Lưu Yên [劉焉], hoàng tử thứ 10 của Hán Quang Vũ Đế, thụy Trung Sơn Giản vương (中山简王). Mất năm Vĩnh Nguyên thứ 2 (90) thời Hán Hòa Đế.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 後漢書/卷10上: 光武郭皇后諱聖通,真定槀人也。為郡著姓。父昌,讓田宅財產數百萬與異母弟,國人義之。仕郡功曹。娶真定恭王女,號郭主,生后及子況。昌早卒。郭主雖王家女,而好禮節儉,有母儀之德。
  2. ^ 《后汉书·皇后纪》光武即位,令侍中傅俊迎后,与胡阳、宁平主诸宫人俱到洛阳,以后为贵人。
  3. ^ 《后汉书·皇后纪》及光武为司隶校尉,方西之洛阳,令后归新野。及邓奉起兵,后兄识为之将,后随家属徙淯阳,止于奉舍。
  4. ^ 《后汉书·皇后纪》帝以后雅性宽仁,欲崇以尊位
  5. ^ 《东观汉记·卷六·传一》上以后性贤仁,宜母天下,欲授以尊位。
  6. ^ 《后汉书·皇后纪》后固辞,以郭氏有子,终不肯当,故遂立郭皇后。
  7. ^ 《东观汉纪·卷六·传一》后辄退让,自陈不足以当大位。
  8. ^ 《后汉书·耿纯传》时真定王刘扬复造作谶记云:“赤九之后,瘿扬为主。”扬病瘿,欲以惑众,与绵曼贼交通。建武二年春,遣骑都尉陈副、游击将军邓隆征扬,扬闭城门,不内副等。乃复遣纯持节,行赦令于幽、冀,所过并使劳慰王侯。密来纯曰:“刘扬若见,因而收之。”纯从吏士百余骑与副、隆会元氏,俱至真定,止传舍。扬称病不谒,以纯真定宗室之出,遣使与纯书,欲相见。纯报曰:“奉使见王侯牧守,不得先诣,如欲面会,宜出传舍。”时扬弟临邑侯让及从兄细各拥兵万余人,扬自恃众强而纯意安静,即从官属诣之,兄弟并将轻兵在门外。扬入见纯,纯接以礼敬,因延请其兄弟,皆入,乃闭郃悉诛之,因勒兵而出。真定震怖,无敢动者。
  9. ^ 《后汉书·光武帝纪》:(建武二年正月)真定王杨、临邑侯让谋反,遣前将军耿纯诛之。
  10. ^ 《后汉书·天文志》建武九年七月乙丑,金犯轩辕大星。十一月乙丑,金又犯轩辕。轩辕者,后宫之官,大星为皇后,金犯之为失势。是时郭后已失势见疏,后废为中山太后,阴贵人立为皇后。
  11. ^ 《后汉书·申屠刚传》建武七年,诏书征刚……刚到,拜侍御史,迁尚书令。……刚每辄极谏,又数言皇太子宜时就东宫,简任贤保,以成其德,帝并不纳。以数切谏失旨,数年,出为平阴令。
  12. ^ 《三国志·魏书·夏侯惇传》孙盛曰:案光武纪,建武九年,盗劫阴贵人母弟,吏以不得拘质迫盗,盗遂杀之也。然则合击者,乃古制也。自安、顺已降,政教陵迟,势质不避王公,而有司莫能遵奉国宪者,浩始复斩之,故魏武嘉焉。
  13. ^ 後漢書 - 光烈陰皇后: 九年,有盜劫殺后母鄧氏及弟訢,帝甚傷之,乃詔大司空曰:『吾微賤之時,娶於陰氏,因將兵征伐,遂各別離。幸得安全,俱脫虎口。以貴人有母儀之美,宜立為后,而固辭弗敢當,列於媵妾。朕嘉其義讓,許封諸弟。未及爵土,而遭患逢禍,母子同命,愍傷於懷。《小雅》曰:「將恐將懼,惟予與汝。將安將樂。汝轉弃予。」風人之戒,可不慎乎?其追爵謚貴人父陸為宣恩哀侯,弟訢為宣義恭侯,以弟就嗣哀侯後。及尸柩在堂,使太中大夫拜授印綬,如在國列侯禮。魂而有靈,嘉其寵榮!』
  14. ^ 洪迈《容斋随笔》:诏令不可轻出,人君一话一言不宜轻发,况于诏令形播告者哉!汉光武初即位,既立郭氏为皇后矣,时阴丽华为贵人,帝欲崇以尊位,后固辞,以郭氏有子,终不肯当。建武九年,遂下诏曰:“吾以贵人有母仪之美,宜立为后,而固辞不敢当,列于媵妾。朕嘉其义让,许封诸弟。”乃追爵其父及弟为侯,皆前世妃嫔所未有。至十七年,竟废郭后及太子强,而立贵人为后。盖九年之诏既行,主意移夺,已见之矣。郭后岂得安其位乎?
  15. ^ 《廿二史考异》卷十一:钱大昕云:“《郡国志》东海十三城,赣榆本属琅邪,实十二城。鲁国六城并之,止十八县。而琅邪郡之开阳、临沂、即丘、缯,下邳国之下邳、曲阳、司吾、良成,广陵郡之海西,泰山郡之南城、费,皆故属东海,故运二十九县。”
  16. ^ 《后汉书·光武帝纪》二十八年春正月己巳,徙鲁王兴为北海王,以鲁国益东海。
  17. ^ 後漢書 - 光武郭皇后: 建武元年,生皇子彊。帝善況小心謹慎,年始十六,拜黃門侍郎。二年,貴人立為皇后,彊為皇太子,封況緜蠻侯。以后弟貴重,賓客輻湊。況恭謙下士,頗得聲譽。十四年,遷城門校尉。其後,后以寵稍衰,數懷怨懟。十七年,遂廢為中山王太后,進后中子右翊公輔為中山王,以常山郡益中山國。徙封況大國,為陽安侯。後從兄竟,以騎都尉從征伐有功,封為新郪侯,官至東海相。竟弟匡為發干侯,官至太中大夫。后叔父梁,早終,無子。其壻南陽陳茂,以恩澤封南侯。
  18. ^ 《后汉书·郅恽传》后既废,而太子意不自安,恽乃说太子曰:“久处疑位,上违孝道,下近危殆。昔高宗明君,吉甫贤臣,及有纤介,放逐孝子。
  19. ^ 《家语》曰:“曾参妻为梨蒸不熟,因出之,终身不娶。其子请焉。曾参曰:‘高宗以后妻杀孝子,尹吉甫以后妻放伯奇,吾上不及高宗,中不比吉甫,知其得免于非乎!’遂不娶。”
  20. ^ 《后汉书·臧宫传》十九年,妖巫维汜弟子单臣、傅镇等,复妖言相聚,入原武城,劫吏人,自称将军。于是遣宫将北军及黎阳营数千人围之。贼谷食多,数攻不下,士卒死伤。帝召公卿诸侯王问方略,皆曰“宜重其购赏”。时显宗为东海王,独对曰:“妖巫相劫,埶无久立,其中必有悔欲亡者。但外围急,不得走耳。宜小挺缓。令得逃亡,逃亡则一亭长足以禽矣。”帝然之,即来宫彻围缓贼,贼众分散,遂斩臣、镇等。宫还,迁城门校尉,复转左中郎将。击武溪贼,至江陵,降之。
  21. ^ 《后汉书·光武帝纪》六月戊申,诏曰:“《春秋》之义,立子以贵。东海王阳,皇后之子,宜承大统。皇太子强,崇执谦退,愿备藩国。父子之情,重久违之。其以强为东海王,立阳为皇太子,改名庄。
  22. ^ 後漢書 - 光武郭皇后: 二十年,中山王輔復徙封沛王,后為沛太后。況遷大鴻臚。帝數幸其第,會公卿諸侯親家飲燕,賞賜金錢縑帛,豐盛莫比,京師號況家為金穴。二十六年,后母郭主薨,帝親臨喪送葬,百官大會,遣使者迎昌喪柩,與主合葬,追贈昌陽安侯印綬,謚曰思侯,二十八年,后薨,葬於北芒。
  23. ^ 《后汉书·孝明帝纪》李贤注:袁宏《汉纪》曰,永平中崇尚儒学,自皇太子、诸王侯及功臣子弟,莫不受经。又为外戚樊氏、郭氏、阴氏、马氏诸子弟立学,号四姓小侯,置《五经》师。以非列侯,故曰小侯。礼记曰“庶方小侯”,亦其义也。