Sade (ban nhạc)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sade
Nguyên quánLondon, Anh Quốc
Thể loạiSoul, R&B, smooth jazz, sophisti-pop, quiet storm, adult contemporary
Năm hoạt động1983–hiện tại
Hãng đĩaEpic, Portrait, RCA
Hợp tác vớiSweetback
Thành viênSade Adu
Stuart Matthewman
Paul Spencer
DenmanAndrew Hale
Websitewww.sade.com

Sade là một ban nhạc soul Anh được hình thành tại London vào năm 1983, mặc dù tất cả các thành viên đều xuất thân từ Kingston Upon Hull.Tên của ban nhạc là từ giọng ca nữ chính Sade Adu. Nhạc của họ có những âm điệu của các loại nhạc soul, R&B, jazz, và soft rock.

Dĩa nhạc đầu tiên ra mắt của ban Sade, Diamond Life, được phát hành vào năm 1984, đạt được hạng 2 tại UK Album Chart, bán hơn 1,2 triệu bản tại Anh, và đoạt được Brit Award về dĩa nhạc Anh hay nhất vào năm 1985.[1] Dĩa này cũng rất thành công trên thế giới, đạt được hạng 1 tại nhiều nước và hạng top ten tại Hoa Kỳ nơi nó được bán đến hơn 4 triệu bản. Vào cuối năm 1985, Sade cho phát hành dĩa thứ hai, Promise, đạt được hạng 1 cả ở Anh và Hoa Kỳ.[2][3] Trong năm 1986 ban này đoạt được Grammy Award cho những nghệ sĩ hay nhất mới nổi tiếng.[4] Sade dĩa nhạc thứ 6, Soldier of Love, được phát hành khắp thế giới vào năm 2010, đoạt được hạng 4 tại Anh, và hạng 1 tại Hoa Kỳ.[5] Trong năm 2011, ban nhạc đoạt được giải Grammy thứ 4 cho cặp đôi hay nhóm chơi nhạc R&B có lời.[4]

Theo như Recording Industry Association of America (RIAA) dĩa của ban Sade bán được 23,5 triệu bản,[6] và cho tới hiện tại tới 50 triệu bản trên khắp thế giới. Ban nhạc được xếp hạng. 50 trên danh sách những nghệ sĩ hay nhất của mọi thời đại của VH1."[7][8]

Thành viên ban nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

  • Sade Adu – giọng ca, viết lời, viết nhạc
  • Stuart Matthewman – guitar, Saxophone, viết nhạc
  • Paul Spencer Denman – Bass guitar, viết nhạc
  • Andrew Hale – keyboards, viết nhạc

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1980[sửa | sửa mã nguồn]

Ban nhạc Sade được thành lập tại Luân Đôn vào năm 1982, bởi thành viên của ban nhạc Latin soul, Pride. Sade Adu, Stuart Matthewman, và Paul Spencer Denman, cùng với Paul Anthony Cook là thành viên của ban nhạc mới này. Tên ban nhạc được đặt theo tên của giọng nữ chính, Sade Adu, họ trình diễn lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1982 tại Ronnie Scott's Club ở London để mà hỗ trợ ban nhạc Pride. vào tháng 5 năm 1983 Sade trình diễn lần đầu tiên ở Hoa Kỳ tại Danceteria Club ở New York City. Andrew Hale tham dự vào ban này năm 1983, nhưng Cook ra khỏi Sade năm 1984. Sade càng ngày càng nhận được nhiều sự chú ý của báo chí và các hãng sản xuất nhạc hơn là ban Pride, và sau cùng họ đã tách ra khỏi nhóm đó. Vào ngày 18 tháng 10 năm 1983, ban nhạc ký hợp đồng với hãng Portrait Records, sau đó được nhập vào hãng mẹ Epic Records (năm 1986).
Vào tháng 2 năm 1984, Sade cho phát hành single đầu tiên của họ, "Your Love Is King", mà đã trở thành Top Ten hit. Single thứ hai, "When Am I Going to Make a Living" chật vật lắm mới đạt được Top 40, nhưng dĩa đầu tiên của Sade, Diamond Life, được phát hành vào tháng 7 năm 1984 leo được lên hạng 2.[2] Nó giữ Top Ten 6 tháng và đoạt được 4 dĩa Platinum của BPI. Diamond Life vào năm 1985 đạt được Brit Award về dĩa nhạc Anh xuất sắc nhất.[1] Ban nhạc bắt tay vào tua lớn đầu tiên vòng quanh nước Anh, được bổ sung bởi Dave Early (trống), Martin Ditcham (percussion), Terry Bailey (trumpet) and Gordon Matthewman (trombone). Dĩa đơn thứ 3, "Smooth Operator", phát xuất từ dĩa đầu tay được phát hành với một video được đạo diễn bởi Julian Temple. Dĩa đơn này trở thành hit đầu tiên của họ ở Hoa Kỳ vào mùa xuân 1985, đưa dĩa nhạc lên US Top Ten. Cũng vào năm 1985, ban nhạc được đề cử 2 giải nhạc video của MTV - cho video nữ xuất sắc nhất và nghệ sĩ mới nổi xuất sắc nhất. Vào ngày 13 tháng 7 năm 1985, Sade trình diễn tại Live Aid ở sân vận động Wembley Stadium ở London. Sade Adu trở thành nghệ sĩ sinh ở Phi châu duy nhất mà xuất hiện trước một số đông khán giả 75 ngàn người và ước tính tổng cộng khắp thế giới khoảng chừng 1,4 tỷ khán thính giả truyền hình từ 170 nước.

Dĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Đợt trình diễn[sửa | sửa mã nguồn]

Phim nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Khúc Video[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Brit Awards: Sade Lưu trữ 2014-11-25 tại Wayback Machine Brits.co.uk. truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2012
  2. ^ a b Roberts, David (2006). British Hit Singles & Albums. London: Guinness World Records Limited
  3. ^ Whitburn, Joel (2006). The Billboard Book of Top 40 Hits. Billboard Books
  4. ^ a b And The GRAMMY Went To... Sade Grammy.com. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2012
  5. ^ Sade's 'Soldier' Sizzles At No. 1 With 502,000 Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2012
  6. ^ Top Selling Artists according to Recording Industry Association of America web site
  7. ^ “The Greatest Artists of All Time”. VH1/Stereogum. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2012.
  8. ^ “Sade Announces First Tour in Eight Years”. VH1. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2009.
  9. ^ “Love is Found (World Tour 2011) | Sade | Music Video”. MTV. ngày 26 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2012.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]