Sebastolobus alascanus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sebastolobus alascanus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Scorpaeniformes
Họ (familia)Sebastidae
Chi (genus)Sebastolobus
Loài (species)S. alascanus
Danh pháp hai phần
Sebastolobus alascanus
T. H. Bean, 1890

Sebastolobus alascanus (tên tiếng Anh là shortspine thornyhead; nghĩa đen "xương sống ngắn đầu gai") là một loài trong họ Sebastidae. Chúng đôi khi cũng được gọi là "cá ngốc" hoặc "cá tuyết ngốc" do cái đầu và cặp mắt quá khổ của chúng. Chúng được tìm thấy ở Canada, NgaHoa Kỳ. Cá con S. alascanus trưởng thành chủ yếu sống trong vùng tối thiểu oxy (OMZ), và do đó cần có những thích nghi cụ thể để khắc phục các vấn đề do mức độ bão hòa oxy cực kỳ thấp. Được cho phép tăng tần suất thông khí trong thời gian tiếp xúc với điều kiện thiếu oxy dần dần, so với loài họ hàng Scorpaena guttata nông cạn hơn của chúng, cho phép S. alascanus bù đắp cho nồng độ oxy thấp vốn có trong OMZ. Hơn nữa, nồng độ lactate dehydrogenase tăng cao, đặc biệt là đồng dạng kỵ khí - LDH-A trong tim và cơ của S. alascanus, cho thấy một cơ chế thích ứng để sản xuất ATP trong điều kiện lượng oxy thấp.

Miêu tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng có đầu lớn với một gờ gai khỏe, và một cơ thể thuôn dài đến chiều dài tối đa là 80 cm. Vây lưng có 15 đến 17 gai và 8 đến 9 tia mềm và vây hậu môn có 3 gai và 4 đến 5 tia mềm. Có một rãnh sâu ở vây ngực, và vây đuôi tròn. Màu sắc chung của loài cá này là đỏ tươi với nhiều sắc đen khác nhau trên vây và khoang mang màu nhạt. Loài cá này có thể sống đến 100 năm.[2]

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng có nguồn gốc từ vùng biển lạnh phía bắc Thái Bình Dương và được biết đến từ Canada, AlaskaLiên bang Nga. Độ sâu phạm vi sống của chúng là từ 17 đến 1.600 m, nhưng chúng thường được tìm thấy nhiều hơn ở độ sâu dưới 100 m.[2]

Tình trạng[sửa | sửa mã nguồn]

Các đánh giá riêng biệt về nguồn cung cấp cho loài này ở vùng biển ngoài khơi Alaska, British ColumbiaBờ Tây Hoa Kỳ đều ước tính là tốt (trên giới hạn quản lý) và việc đánh bắt quá mức không xảy ra.[3][4][5] Tình trạng IUCN của chúng là "loài nguy cấp" dựa trên đánh giá được thực hiện vào năm 2000.[1]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Bell, T. & Guttman, A. (2000). Sebastolobus alascanus. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.1. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2013.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “iucn” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ a b Sebastolobus alascanus Bean, 1890: Shortspine thornyhead”. FishBase. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ Echave KB, Hulson PJ, Shotwell SK (2015), Assessment of the Thornyhead stock complex in the Gulf of Alaska, in Stock Assessment and Fishery Evaluation Report for the Groundfish Resources of the Gulf of Alaska (PDF), 605 W 4th Ave, Suite 306, Anchorage AK: North Pacific Fishery Management CouncilQuản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  4. ^ DFO (2016), Stock assessment of the coastwide population of Shortspine Thornyhead (Sebastolobus alascanus) for British Columbia, Canada in 2015 (PDF), DFO Can. Sci. Advis. Sec. Sci. Advis. Rep.
  5. ^ Taylor IG, Stephens A (2013), Stock Assessment of Shortspine Thornyhead in 2013 (PDF), Portland, OR: Pacific Fishery Management Council, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2017, truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2020

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]