Thái Quang Hoàng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thái Quang Hoàng
Chức vụ

Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan
Nhiệm kỳ11/1963 – 5/1965
Cấp bậc-Trung tướng
Kế nhiệm-Đại tướng Dương Văn Minh
Vị tríThủ đô Bangkok
Vương quốc Thái Lan

Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự
(tiền thân của trường chỉ huy Tham mưu)
kiêm Quân trấn trưởng Đà Lạt
Nhiệm kỳ11/1961 – tháng 11/1963
Cấp bậc-Trung tướng
Tiền nhiệm-Trung tướng Phạm Xuân Chiểu
Kế nhiệm-Trung tướng Lê Văn Nghiêm
Vị tríVùng 2 chiến thuật

Tư lệnh Quân khu Thủ Đô
(từ tháng 6/1961 là Biệt khu Thủ đô)
Nhiệm kỳ4/1959 – 11/1961
Cấp bậc-Trung tướng
Tiền nhiệm-Trung tướng Dương Văn Minh
Kế nhiệm-Thiếu tướng Nguyễn Văn Là
Vị tríVùng 3 chiến thuật

Tư lệnh Quân đoàn III
Nhiệm kỳ3/1959 – 10/1959
Cấp bậc-Trung tướng
Tiền nhiệmĐầu tiên
Kế nhiệm-Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ
Vị tríVùng 3 chiến thuật

Tư lệnh Quân đoàn I
Nhiệm kỳ6/1957 – 10/1957
Cấp bậc-Trung tướng
Tiền nhiệmĐầu tiên
Kế nhiệm-Trung tướng Trần Văn Đôn
Vị tríVùng 1 chiến thuật

Tư lệnh Đệ Nhị Quân khu Trung Việt
(tiền thân của Vùng 1 chiến thuật)
Nhiệm kỳ9/1956 – 6/1957
Cấp bậc-Thiếu tướng
-Trung tướng (12/1956)
Vị tríMiền trung Trung phần

Tư lệnh Đệ Tứ Quân khu
(tiền thân của Vùng 2 chiến thuật)
Nhiệm kỳ1/1956 – 9/1956
Cấp bậc-Đại tá
-Thiếu tướng (6/1956)
Tiền nhiệm-Đại tá Linh Quang Viên
Vị tríNam Cao nguyên và nam Duyên hải Trung phần
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Thuận
Nhiệm kỳ1/1955 – 10/1955
Cấp bậc-Thiếu tá
-Trung tá (10/1955)
-Đại tá (1/1956)
Vị tríĐệ tứ Quân khu
Tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận
Nhiệm kỳ11/1954 – 1/1955
Cấp bậc-Thiếu tá (7/1954)
Vị tríĐệ tứ Quân khu
Thông tin chung
Quốc tịch Hoa Kỳ
 Việt Nam Cộng hòa
Sinh1 tháng 10 năm 1918
Huế, Thừa Thiên, Liên bang Đông Dương
Mất22 tháng 2 năm 1993(1993-02-22) (74 tuổi)
Virginia, Hoa Kỳ
Nguyên nhân mấtBệnh ung thư
Nơi ởTexas, Hoa Kỳ
Nghề nghiệpQuân nhân
Dân tộcKinh
Họ hàngThái Quang Chức (em)
Học vấnTú tài bán phần
Trường lớp-Trường Quốc học Huế
-Trường Võ bị Tông, Sơn Tây
-Đại học Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ
Quê quánTrung Kỳ
Binh nghiệp
Thuộc Quân đội Pháp
Quân đội Liên hiệp Pháp
Quân đội Quốc gia
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Phục vụ Pháp
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1941 - 1965
Cấp bậc Trung tướng
Đơn vị Quân đoàn I và QK 1
Quân đoàn III và QK 3
Biệt khu Thủ đô
Chỉ huy Quân đội Pháp
Quân đội Liên hiệp Pháp
Quân đội Quốc gia
Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Thái Quang Hoàng (1918 – 1993) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị của Quân đội Pháp mở ra ở miền Bắc Việt Nam[1] với mục đích đào tạo thí sinh trên toàn thuộc địa Đông Dương trở thành sĩ quan, phục vụ cho Quân đội Thuộc địa Pháp và Quân đội Liên hiệp Pháp sau này. Ông là một trong số ít sĩ quan được thăng cấp tướng ở thời kỳ Đệ Nhất Cộng hòa. Ông từng bị các sĩ quan chỉ huy cuộc Đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960 bắt giữ làm con tin để đào thoát sang Campuchia.

Tiểu sử và Binh nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1918 trong một gia đình Nho giáo có truyền thống hiếu học tại Huế, Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Ông còn có tên khác là Thái Quang Hoằng tự Tuyên Văn. Thời niên thiếu ông học phổ thông các cấp ở Huế. Năm 1939, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp ở trường Trường Quốc học Huế với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó, ông được bổ dụng làm Công chức tại Huế một thời gian trước khi gia nhập quân đội.

Quân đội Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu năm 1941 ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, theo học tại trường Võ bị Tông, Sơn Tây. Sau một năm, ông mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Ra trường, ông được điều động đi phục vụ trong một đơn vị Bộ binh thuộc Quân đội Thuộc địa Pháp với chức vụ Trung đội trưởng. Năm 1944 ông được thăng cấp Thiếu úy tại nhiệm. Bấy giờ, tại Huế chỉ có hai người Việt mang lon Thiếu úy[2] là ông và ông Phan Tử Lăng. Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, Phan Tử Lăng được đưa vào Lực lượng Bảo an Trung Kỳ tham gia Việt Minh. Còn ông thì giải tán đơn vị và trở về nhà.

Quân đội Liên hiệp Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1946 khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, ông tái ngũ và được thăng cấp Trung úy. Năm 1947, ông chuyển sang phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Năm 1948, ông được cử giữ chức vụ Giám đốc Binh sĩ Cuộc ở Huế. Tháng 12 cùng năm, ông được thăng cấp Đại úy, giữ chức vụ Trưởng phòng 3 Việt binh Đoàn ở Huế. Tại đây ông đã kết bạn với một Đại úy trẻ người Việt khác tên là Đỗ Mậu giữ chức vụ Tham mưu phó Việt binh đoàn. Chính tướng Đỗ Mậu về sau ghi nhận rất cảm phục ông khi "dám sỉ vả một Trung tá người Pháp đang giữ chức Trưởng phái bộ Quân sự, cố vấn cho Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ".[3]

Quân đội Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1950 ông được chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Quốc gia thuộc Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại làm Tổng Chỉ huy. Đầu năm 1954 ông rời Việt binh đoàn ở Huế chuyển đi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 603 Khinh quân,[4] đồn trú tại Phan Rang. Ngày 1 tháng 7 năm 1954, ông được thăng cấp Thiếu tá do sự vận động của Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ, Tư lệnh Phân khu Duyên Hải.

Sau khi Chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước giữ chức vụ Thủ tướng, mâu thuẫn giữa tân Thủ tướng và Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh nhanh chóng bùng nổ. Tướng Hinh lên kế hoạch đảo chính Thủ tướng Diệm nhưng bất thành. Được sự vận động của Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ, bấy giờ là Tư lệnh Phân khu Duyên hải, ông đã đem 700 quân[5] rút vào vùng rừng núi Sầu Đâu, cách Phan Rang khoảng 10 cây số để lập Chiến khu Đông, chống lại tướng Nguyễn Văn Hinh, biểu lộ thái độ ủng hộ Thủ tướng Diệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Quan lộ thăng tiến[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi âm mưu đảo chính bất thành, tướng Hinh buộc phải rời bỏ chức vụ và phải sang Pháp, ông được Thủ tướng Diệm triệu hồi về và ra lệnh giải tán chiến khu Đông để về giữ chức vụ Tỉnh trưởng Ninh Thuận. Đầu năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng Bình Thuận thay thế ông Lưu Bá Châm. Tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và giữ vai trò Quốc trưởng, ông được thăng cấp Trung tá bàn giao tỉnh Bình Thuận lại cho Trung tá Phan Xuân Nhuận để đi du học lớp Tham mưu trưởng tại Trường Tham mưu Paris ở Pháp.

Đầu năm 1956 mãn khóa học về nước, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Đệ Tứ Quân khu Nam Cao nguyên thay thế Đại tá Linh Quang Viên. Giữa năm ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Ngày 1 tháng 9 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Đệ Nhị Quân khu Trung Việt. Ngày 10 tháng 12 cuối năm ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Ngày 1 tháng 6 năm 1957 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I tân lập. Trung tuần tháng 10 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn I lại cho Trung tướng Trần Văn Đôn để về Bộ Tổng tham mưu chờ nhận nhiệm vụ mới. Tháng 8 năm 1958 ông được cử đi tu nghiệp lớp tham mưu cao cấp (khóa 1958-2) ở Đại học Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Hoa Kỳ.[6] Đầu năm 1959 về nước, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III tân lập. Giữa tháng 4 cùng năm kiêm Tư lệnh Quân khu Thủ đô thay thế Trung tướng Dương Văn Minh được cử làm Tổng Thư ký Thường trực Bộ Quốc phòng. Tháng 10 cùng năm, ông bàn giao Quân đoàn III cho Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ, chỉ còn đảm trách Quân khu Thủ đô.

Bị thất sủng[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, cuộc đảo chính quân sự lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông[7] cầm đầu đã nổ ra. Quân đảo chính lợi dụng bất ngờ đã chiếm giữ được một số vị trí quan trọng, kiểm soát được Quân khu Thủ đô và bao vây Dinh Độc Lập. Ông bị các chỉ huy đảo chính bắt giữ và đưa về Bộ Tổng Tham mưu quản thúc trong căn nhà dùng làm Trung tâm Hành quân của cuộc đảo chánh.

Tuy nhiên, cuộc đảo chính nhanh chóng bất thành. Nhóm sĩ quan chỉ huy đảo chính đã cướp máy bay, ép Đại úy phi công Phan Phụng Tiên lái máy bay để đào thoát sang Campuchia. Họ cũng đã bắt ông theo để làm con tin.[3] Sau khi sang đến Campuchia, ông được thả và được phép trở về Việt Nam.[8] Tuy nhiên, Tổng thống Diệm đã thất vọng và cáo buộc ông không đủ năng lực để phản ứng với cuộc đảo chính. Vì thế, tháng 11 năm 1961 chính quyền đã điều chuyển ông sang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự kiêm Quân trấn trưởng Đà Lạt thay thế Trung tướng Trần Văn Minh sau khi bàn giao Biệt khu Thủ đô[9] lại cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Đây là một chức vụ hữu danh vô thực và không thực quyền cầm quân.

Từ sau sự việc này, ông trở nên an phận và không tham gia bất kỳ ý định chính trị nào. Chính vì thế, khi các tướng lĩnh thực hiện cuộc đảo chính 1963, ông đã không giữ bất cứ vai trò nào. Tuy vậy, khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc Chỉnh lý, để loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của các "tướng già", ông đã được tướng Khánh điều vào chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan từ tháng 11 năm 1963 sau khi bàn giao trường Đại học Quân sự lại cho Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 1964, ông lại được triệu hồi về để "ngồi chơi xơi nước". "Người hùng" của cuộc đảo chính năm 1963, tướng Dương Văn Minh, sang Thái Lan thay chức vụ của ông. Tháng 8 năm 1965, ông nhận được quyết định giải ngũ khi mới 45 tuổi.

Vĩ thanh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1967 ông tham gia liên danh với các cựu tướng lĩnh như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Chuân, Lê Văn Nghiêm, Tôn Thất Xứng... ra tranh cử Thượng viện. Tuy nhiên ông bị thất cử. Từ đó ông sống thầm lặng.

1975[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 30 tháng 4 ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam, rồi sang định cư tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Sau đó, ông và gia đình di chuyển sang Tiểu bang Texas hành nghề kim hoàn kiếm sống và dần trở thành Giám đốc một công ty tư nhân chuyên về nữ trang tại Arlington, Texas.

Ngày 22 tháng 2 năm 1993, ông từ trần vì bệnh ung thư tại nơi định cư, hưởng thọ 75 tuổi.

Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng Thái Quang Hoàng là người ít nói nhưng khí phách và can trường. Ông có một đức tính hiếm hoi là không bao giờ nói xấu ai với cấp trên. Thái độ quân tử nhiều khi vô lý của Thái Quang Hoàng đã làm cho tướng Lê Văn Tỵ phải bực mình...

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Vào khoảng cuối thập niên 30 sang đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, Chính quyền Bảo hộ Pháp mở ra ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam hai trường Võ bị chuyên đào tạo sĩ quan người bản xứ thuộc các nước trên bán đảo Đông Dương để phục vụ Quân đội Thuộc địa. Ở miền Bắc là trường Võ bị Tông đặt cơ sở tại tỉnh Sơn Tây, miền Nam là trường Võ bị Thủ Dầu Một đặt ở tỉnh Thủ Dầu Một (sau này là tỉnh Bình Dương).
  2. ^ Xã hội thời bấy giờ gọi là "Quan Một".
  3. ^ a b Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Chương 11: Năm 1960, bắt đầu của sự sụp đổ.
  4. ^ Tiểu đoàn 603 Khinh quân được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1953 tại Phan Rí, Bình Thuận.
  5. ^ Gồm Tiểu đoàn 83 Việt Nam cộng thêm quân số thuộc Tiểu khu Phú Yên, Khánh Hòa và Ninh Thuận cùng 50 Nghĩa Dũng Đoàn, Công an Phan Rang.
  6. ^ Lớp Chỉ huy Tham mưu 1958-2 thụ huấn 16 tuần, Đại học Quân sự Hoa Kỳ thu nhận 4 sĩ quan Việt Nam Cộng hòa gồm có: Trung tướng Thái Quang Hoàng, Trung tướng Dương Văn Minh, Trung tướng Trần Văn Minh và Trung tá Nguyễn Văn Kiểm.
  7. ^ Cựu Trung tá Vương Văn Đông sinh năm 1930 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 2 Võ bị Huế. Nguyên Liên đoàn phó Liên đoàn Nhảy dù, xuất ngũ năm 1960.
  8. ^ Ngày 15 tháng 11 năm 1960 tướng Hoàng được trở về nước.
  9. ^ Tháng 6 năm 1961, Quân khu Thủ đô được đổi thành Biệt khu Thủ đô

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kết[sửa | sửa mã nguồn]