Thảo luận:Thương mại điện tử

Nội dung trang không được hỗ trợ ở ngôn ngữ khác.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cả bài mà không để lại chú thích + nguồn => bực thật. Dammio (thảo luận) 14:07, ngày 5 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]

Tôi đọc báo thấy có thuật ngữ B2G và thấy chú thích là Business to Government. Xin giải thích giúp cho B2G và B2A giống và khác nhau thế nào. Cảm ơn. Dinh Dao Anh Thuy 03:24, 4 tháng 10 2006 (UTC)

Khái niệm Thương mại điện tử giống và khác nhau như thế nào với khái niệm kinh doanh trực tuyến? Newone 16:36, ngày 5 tháng 3 năm 2007 (UTC)[trả lời]

Phần xóa của bài Thương mại điện tử chuyển sang đây[sửa mã nguồn]

Lý thuyết trong kinh tế học

Kinh tế quốc dân

Các hiểu biết về những tính chất đặc biệt của kinh doanh điện tử phát sinh từ khi lý thuyết Kinh tế học tân cổ điển (Neoclassical economics) bị từ bỏ. Lý thuyết này đặt tiên đề, ngoài những việc khác, là hàng hóa đồng nhất, một thị trường minh bạch hoàn toàn và không có sự ưu đãi, và vì thế là ở một mức trừu tượng hóa cao độ nhưng xa rời thực tế. Lý thuyết Kinh tế học thể chế Mới tạo ra khả năng miêu tả cuộc sống kinh tế một cách gần thực tế hơn.

Trong khuôn khổ của lý thuyết Kinh tế học thể chế mới, các phí tổn giao dịch đóng một vai trò quan trọng. Internet có thể làm giảm phí tổn của một giao dịch trong giai đoạn tìm và khởi đầu giao dịch. Ngay trong giai đoạn tiến hành cũng có khả năng giảm phí tổn chuyên chở. Nói chung phí tổn cho các giao dịch trên thị trường được giảm đi và việc điều phối thông qua thị trường có lợi hơn.

Kinh tế nhà máy

Mục đích của một doanh nghiệp khi biến đổi đến thương mại điện tử là giảm thiểu chi phí trong doanh nghiệp. Các biện pháp nhằm để giảm thiểu chi phí trước tiên là bao gồm việc tối ưu hóa các quy trình kinh doanh đang tồn tại và thành lập các quy trình mới dựa trên nền tảng của các công nghệ Internet. Thông qua việc tích hợp này của các tính năng doanh nghiệp dọc theo chuỗi giá trị, việc tiến hành kinh doanh có hiệu quả cao hơn. Các lợi thế cho doanh nghiệp có thể là:

  • Khả năng giao tiếp mới với khách hàng
  • Khách hàng hài lòng hơn
  • Nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp
  • Khai thác các kênh bán hàng mới
  • Có thêm khách hàng mới
  • Tăng doanh thu
  • Tăng hiệu quả

Phân cách kỹ thuật số

Khái niệm "phân cách kỹ thuật số" (tiếng Anh: digital divide) diễn tả việc chia cắt thế giới ra làm hai phần: một phần mà trong đó việc sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử đã phát triển và một phần kém phát triển hơn. Các nhà kinh tế học tin rằng việc sử dụng thương mại điện tử sẽ nâng cao tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế quốc dân và vì thế các nước đã phát triển cao sẽ tiếp tục tăng khoảng cách bỏ xa các nước kém phát triển hơn.

Cửa hàng trực tuyến

Cửa hàng trực tuyến đưa hàng vào trong Internet để bán. Đây là một chương trình phần mềm có tính năng giỏ hàng. Người mua chọn lựa các sản phẩm và đặt chúng vào giỏ hàng. Đằng sau một cửa hàng trực tuyến như thế là một việc kinh doanh thật sự, tiến hành các đơn đặt hàng. Có nhiều chương trình phần mềm cho kênh bán hàng này.

Một cửa hàng trực tuyến hiện đại không chỉ tạo khả năng cho người dùng xem món hàng hai chiều và đọc một ít thông số kỹ thuật của món hàng đó. Trong lãnh vực hàng tiêu dùng cao cấp người ta cũng đã tạo ảnh ba chiều của sản phẩm để cảm giác của khách hàng càng gần hiện thực càng tốt. Ngoài ra còn có các chương trình cấu hình mà qua đó màu sắc, trang bị và thiết kế của sản phẩm có thể thay đổi để phù hợp với tưởng tượng cá nhân của từng khách hàng. Bằng cách này người sản xuất hay người chào bán còn có thêm thông tin rất có giá trị về ý thích của khách hàng.

Các hình thức được biết nhiều của thương mại điện tử là mua bán sách và nhạc cũng như mua bán đấu giá trong Internet. Thông qua việc Internet bùng nổ vào cuối thập niên 1990, cửa hàng trực tuyến ngày càng có tầm quan trọng nhiều hơn. Những người bán hàng trong Internet có lợi thế là họ không cần đến một diện tích bán hàng thật sự mà thông qua các trang Web sử dụng một không gian bán hàng ảo. Các cửa hàng trực tuyến cũng thường hay không cần đến nhà kho hay chỉ cần đến rất ít, vì thường có thể cung cấp cho khách hàng trực tiếp từ người sản xuất hay có thể đặt hàng theo nhu cầu. Lợi thế do tiết kiệm được những phí tổn cố định này có thể được tiếp tục chuyển tiếp cho khách hàng. Ngay cả những người bán sách trong Internet tại Đức, bắt buộc phải bán sách theo giá cố định, cũng vẫn có lợi thế là - thông qua việc không thu tiền cước phí gửi - tiết kiệm được cho khách hàng một chuyến đi đến nhà bán sách mà vẫn có cùng một giá.

Các ngành hưởng lợi của xu hướng này, bên cạnh các cửa hàng trực tuyến, đặc biệt là các doanh nghiệp tiếp vận và các dịch vụ phân phối, trong khi các doanh nghiệp bán hàng nhỏ lẻ thường là những người thua cuộc trong biến đổi này. Ngành công nghệ thông tin cũng hưởng lợi gián tiếp từ tăng trưởng của thương mại Internet thông qua các đơn đặt hàng nhiều hơn cho việc cung ứng kỹ thuật cũng như bảo trì các cửa hàng trực tuyến.

Tâm lý mua hàng tại Đức

Theo nghiên cứu mang tính chất đại diện "E-Commerce 2004" do Postbank AG (Ngân hàng bưu điện (Đức)) ủy nhiệm thì phụ nữ có định hướng về công danh sự nghiệp là những người mua hàng trực tuyến tích cực nhất. Ngoài việc giao hàng nhanh chóng thì những điều quan trọng khác là khả năng có thể mua sắm bất cứ lúc nào trong ngày và có thể so sánh hàng hóa và giá cả tốt hơn.

Nghiên cứu nêu ra khác biệt rõ rệt trong thái độ mua sắm giữa khách hàng nam và khách hàng nữ. Phụ nữ ít vào Internet hơn nhưng lại mua sắm trực tuyến nhiều hơn. Ngược lại phái nam thường mua nhiều hơn trong các cuộc đấu giá và tại những cửa hàng trực tuyến ở nước ngoài. Thích đi mua sắm ảo nhất là phụ nữ có thu nhập cao, với thu nhập sau thuế nhiều hơn 3.000 Euro. Đặc biệt du lịch, đồng hồ, nữ trangthời trang là những thứ được thích nhất. Trong khi giá cả thuận lợi là quan trọng cho nam giới thì phụ nữ quan tâm đến chất lượng món hàng và phục vụ khách hàng nhiều hơn. Nam giới vượt lên rõ rệt trong các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, giao dịch trái phiếu trực tuyến và những cách tiến hành giao dịch chứng khoán khác trong Internet. Tham gia cuộc khảo sát này có 264 người bán hàng trực tuyến và 1.020 cá nhân.


Nguồn và mức độ chính xác[sửa mã nguồn]

Bài viết này có nhiều thông tin và định nghĩa mang tính khẳng định, nhưng lại không có nguồn để chứng minh thông tin chính xác. Nghĩa của electronic commerce hiện nay rất rộng, nhưng dù có rộng nghĩa cũng chỉ loanh quanh trong các nghĩa thương mại, buôn bán, hay giao dịch, quản trị có liên quan trực tiếp & gián tiếp đến kinh doanh, thương mại, nhưng bài bên tiếng Việt lại có cả phần viết thêm về những giao dịch trực tuyến giữa 2 đối tượng với nhau thông phương tiện điện tử, (dù là hoàn toàn không liên quan đến thương mại, hay kinh doanh), như chính phủ điện tử, như giao dịch "giữa các cơ quan Chính phủ". Cần có thêm nguồn và thông tin chuẩn xác để chứng minh cách hiểu này. Còn nếu không thì theo tôi, E-goverment (chính phủ điện tử) không thuộc về thương mại điện tử, mà là một phần riêng và cùng với thương mại điện tử là 2 mục con thuộc về thể loại: "giao dịch điện tử" hay "tương tác điện tử". --Langtucodoc (thảo luận) 15:14, ngày 5 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]

Tôi đang chỉnh sửa lại phù hợp với kiến thức thực tế, nguồn tham khảo từ Wiki En. Dammio (thảo luận) 04:15, ngày 6 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]


Lưu trữ tạm[sửa mã nguồn]

Định nghĩa

Thương mại điện tử (còn gọi là E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông, đặc biệt là trực tuyến qua máy tính và mạng Internet.

Thương mại điện tử (Electronic Commerce), một yếu tố hợp thành của nền "Kinh tế số hóa", là hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn gọi là "Thương mại không có giấy tờ").

"Thông tin" trong khái niệm trên được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính, các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, các mẫu đơn, các biểu mẫu, hình ảnh động, âm thanh, v.v...

"Thương mại" (commerce) trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu (như quy định trong "Đạo luật mẫu về thương mại điện tử" của Liên hiệp quốc) là mọi vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại (commercial), dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thoả thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt, đường bộ; và v.v... Như vậy, phạm vi của thương mại điện tử (E-commerce) rất rộng, bao quát hầu như mọi hình thái hoạt động kinh tế, mà không chỉ bao gồm buôn bán hàng hóadịch vụ; buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một trong hàng nghìn lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử.

Các khái niệm khác nhau

Hai khái niệm phổ biến nhất là "Thương mại điện tử" (tiếng Anh là E-Commerce) và "Kinh doanh điện tử" (tiếng Anh là E-Business). Nếu thương mại điện tử chủ yếu bao hàm các hoạt động tiếp thị (marketing), bán hàng, phân phối và thanh toán có ứng dụng các phương tiện điện tử và mạng viễn thông trong giao dịch, thì kinh doanh điện tử bao hàm phạm vi rộng hơn của ứng dụng các phương tiện điện tử, mạng viễn thông vào các khía cạnh của hoạt động kinh doanh. Đặc biệt là ba hoạt động chính: Quản lý chuỗi cung ứng (SCM), quản lý nguồn lực doanh nghiệp (ERP) và quản lý quan hệ khách hàng (CRM).

Nhìn một cách tổng quát, các định nghĩa thương mại điện tử được chia thành hai nhóm tùy thuộc vào quan điểm:

Hiểu theo nghĩa hẹp

Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại điện tử trong việc mua bán hàng hóadịch vụthông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng viễn thông.

Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet".

Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), "Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số".

Hiểu theo nghĩa rộng

Có hai định nghĩa khái quát được đầy đủ nhất phạm vi hoạt động của Thương mại điện tử:

Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: "Thuật ngữ thương mại [commerce] cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại commercial bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ".

Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử.

Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh".

Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm nhiều hành vi trong đó: hoạt động mua bán hàng hóa; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối với thương mại hàng hoá (như hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo)

Theo quan điểm thứ hai nêu trên, "thương mại" (commerce) trong "thương mại điện tử" không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) theo các hiểu thông thường, mà bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, do đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế. Theo ước tính đến nay, thương mại điện tử có tới trên 1.300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.

Các điểm đặc biệt của thương mại điện tử so với các kênh phân phối truyền thống là tính linh hoạt cao độ về mặt cung ứng và giảm thiểu lớn phí tổn vận tải với các đối tác kinh doanh. Các phí tổn khác thí dụ như phí tổn điện thoại và đi lại để thu nhập khác hàng hay phí tổn trình bày giới thiệu cũng được giảm xuống. Mặc dầu vậy, tại các dịch vụ vật chất cụ thể, khoảng cách không gian vẫn còn phải được khắc phục và vì thế đòi hỏi một khả năng tiếp vận phù hợp nhất định.

Ngày nay người ta hiểu khái niệm thương mại điện tử thông thường là tất cả các phương pháp tiến hành kinh doanh và các quy trình quản trị thông qua các kênh điện tử mà trong đó Internet hay ít nhất là các kỹ thuật và giao thức được sử dụng trong Internet đóng một vai trò cơ bản và công nghệ thông tin được coi là điều kiện tiên quyết. Một khía cạnh quan trọng khác là không còn phải thay đổi phương tiện truyền thông, một đặc trưng cho việc tiến hành kinh doanh truyền thống. Thêm vào đó là tác động của con người vào quy trình kinh doanh được giảm xuống đến mức tối thiểu. Trong trường hợp này người ta gọi đó là Thẳng đến gia công (Straight Through Processing). Để làm được điều này đòi hỏi phải tích hợp rộng lớn các các tính năng kinh doanh.

Phương tiện của thương mại điện tử

Các phương tiện điện tử được sử dụng trong thương mại điện tử là:

  1. Máy điện thoại;
  2. Máy fax;
  3. Truyền hình;
  4. Các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử (Bao gồm cả mạng giá trị gia tăng);
  5. Các mạng nội bộ (Intranet) và Mạng ngoại bộ (Extranet);
  6. Mạng toàn cầu Internet. Công cụ Internet và Website ngày càng phổ biến, giao dịch thương mại điện tử với nước ngoài hầu như đều qua Internet, các mạng nội bộ và ngoại bộ nay cũng thường sử dụng công nghệ Internet.

Hình thức giao dịch

Các hình thức hoạt động chủ yếu của giao dịch thương mại điện tử là:

  1. Thư điện tử (email);
  2. Thanh toán điện tử (electronic payment);
  3. Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange - EDI);
  4. Giao gửi số hóa các dữ liệu (digital delivery of content), tức việc mua bán, trao đổi các sản phẩm mà người ta cần nội dung (chính nội dung là hàng hoá), mà không cần tới vật mang hàng hoá (như: phim ảnh, âm nhạc, các chương trình truyền hình, phần mềm máy tính, v.v...);
  5. Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods).

Trong các hình thức trên, trao đổi dữ liệu điện tử (dưới dạng các dữ liệu có cấu trúc) là hình thức chủ yếu.

Cách giao tiếp

Thương mại điện tử bao gồm bốn loại giao tiếp:

  1. Người với người (qua điện thoại, thư điện tử, fax);
  2. Người với máy tính điện tử (qua các mẫu biểu điện tử, qua Website);
  3. Máy tính điện tử với người (qua fax, thư điện tử);
  4. Máy tính điện tử với máy tính điện tử (qua trao đổi dữ liệu có cấu trúc, thẻ thông minh, mã vạch).

Cách giao dịch

Giao dịch thương mại điện tử tiến hành:

  1. Giữa các doanh nghiệpngười tiêu dùng;
  2. Giữa các doanh nghiệp với nhau;
  3. Giữa doanh nghiệp với Chính phủ;
  4. Giữa người tiêu thụ với Chính phủ;
  5. Giữa các cơ quan Chính phủ.
  6. giữa con người với con người thông qua công cụ máy tính

Trong các quan hệ giao dịch nói trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau là quan hệ chủ yếu.

Tiêu chuẩn kỹ thuật

  • eBXML – XML cho quy trình kinh doanh điện tử
  • XBEL – XML dùng trong kế toán
  • BMECat – XML dùng trong trao đổi dữ liệu danh mục hàng hóa, thông tin giá cả,...
  • WClass – Hệ thống nhóm hàng hóa của công nghiệp điện
  • UNSPSC - Tiêu chuẩn phân loại hàng hóa
  • shopinfo.xml – Cung cấp dữ liệu sản phẩm và cửa hàng

Lợi ích của thương mại điện tử

  • Giúp cho các Doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị trường và đối tác
  • Giảm chi phí sản xuất
  • Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
  • Thông qua Internet giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chí phí giao dịch
  • Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành phần tham gia vào quá trình thương mại.
  • Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hóa.

Các loại thị trường điện tử

Tùy thuộc vào đối tác kinh doanh người ta gọi đó là thị trường B2B, B2C, C2B hay C2C. Thị trường mở là những thị trường mà tất cả mọi người có thể đăng ký và tham gia. Tại một thị trường đóng chỉ có một số thành viên nhất định được mời hay cho phép tham gia. Một thị trường ngang tập trung vào một quy trình kinh doanh riêng lẻ nhất định, thí dụ như cung cấp: nhiều doanh nghiệp có thể từ các ngành khác nhau tham gia như là người mua và liên hệ với một nhóm nhà cung cấp. Ngược lại, thị trường dọc mô phỏng nhiều quy trình kinh doanh khác nhau của một ngành duy nhất hay một nhóm người dùng duy nhất.

Sau khi làn sóng lạc quan về thương mại điện tử của những năm 1990 qua đi, thời gian mà đã xuất hiện nhiều thị trường điện tử, người ta cho rằng sau một quá trình tập trung chỉ có một số ít thị trường lớn là sẽ tiếp tục tồn tại. Thế nhưng bên cạnh đó là ngày càng nhiều những thị trường chuyên môn nhỏ.

Ngày nay tình hình đã khác hẳn đi: công nghệ để thực hiện một thị trường điện tử đã rẻ đi rất nhiều. Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau thông qua các giao diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật độ chào hàng cao. Ngoài ra các thị trường độc lập trước đây còn được tích hợp ngày càng nhiều bằng các giải pháp phần mềm cho một cổng Web toàn diện.

Phân loại thương mại điện tử

Thương mại điện tử có thể được phân loại theo tính cách của người tham gia:

  • Người tiêu dùng
    • C2C (Consumer-To-Comsumer) Người tiêu dùng với người tiêu dùng
    • C2B (Consumer-To-Business) Người tiêu dùng với doanh nghiệp
    • C2G (Consumer-To-Government) Người tiêu dùng với chính phủ
  • Doanh nghiệp
    • B2C (Business-To-Consumer) Doanh nghiệp với người tiêu dùng
    • B2B (Business-To-Business) Doanh nghiệp với doanh nghiệp
    • B2G (Business-To-Government) Doanh nghiệp với chính phủ
    • B2E (Business-To-Employee) Doanh nghiệp với nhân viên
  • Chính phủ
    • G2C (Government-To-Consumer) Chính phủ với người tiêu dùng
    • G2B (Government-To-Business) Chính phủ với doanh nghiệp
    • G2G (Government-To-Government) Chính phủ với chính phủ

Các đòi hỏi của thương mại điện tử

Song song với các lợi ích rõ rệt, trước mắt cũng như lâu dài; Thương mại điện tử đã, đang, và còn tiếp tục đặt ra hàng loạt các đòi hỏi phải đáp ứng, và các vấn đề cần phải giải quyết, trên tất cả các bình diện bao gồm: doanh nghiệp, quốc gia và quốc tế. Những đòi hỏi của thương mại điện tử là một tổng thể của hàng chục vấn đề phức tạp đan xen vào nhau trong một mối quan hệ hữu cơ; và bao gồm:

Hạ tầng cơ sở công nghệ

Chỉ có thể tiến hành thực tế và một cách có hiệu quả thương mại điện tử khi đã có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin đủ năng lực, bao gồm hai nhánh: tính toán (computing) và truyền thông (communications), hai nhánh này ngoài công nghệ thiết bị còn cần phải có một nền công nghiệp điện tử vững mạnh làm nền; và hiện nay đang có xu hướng đưa cả công nghệ bảo mật và an toàn vào cơ sở hạ tầng công nghệ của thương mại điện tử. Đòi hỏi về hạ tầng cơ sở công nghệ bao gồm hai mặt: một là tính tiên tiến, hiện đại về công nghệ và thiết bị, hai là tính phổ cập về kinh tế (đủ rẻ tiền để đông đảo con người có thể thực tế tiếp cận được).

Hạ tầng cơ sở nhân lực

Hoạt động thương mại, theo đúng nghĩa của chữ "thương mại" trong "thương mại điện tử", liên quan tới mọi người, từngười tiêu dùng đến doanh nghiệp, phân phối, Chính phủ, các nhà công nghệ, nên việc áp dụng thương mại điện tử tất yếu đòi hỏi đa số con người phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả, có thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy tính, và cần phải có một đội ngũ chuyên gia thông tin đủ mạnh.

Bảo mật, an toàn

Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử, trong đó mọi dữ liệu (kể cả chữ ký) đều ở dạng số hoá, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh mất tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu, v.v... là các rủi ro ngày một lớn, không chỉ với người buôn bán, mà cả với người quản lý, với từng quốc gia, vì các hệ thống điện tử có thể bị kẻ xấu (thường gọi là "hacker") xâm nhập, đòi hỏi phải có các hệ thống bảo mật, an toàn được thiết kế trên cơ sở kỹ thuật mã hóa hiện đại, và một cơ chế an ninh hữu hiệu (nhất là đối với các hệ thống có liên quan tới an ninh quốc gia). Ngoài ra, còn có nhu cầu ngày càng tăng vì giữ gìn bí mật riêng tư.

Hệ thống thanh toán tự động

Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán tự động (trong đó "thẻ thông minh") có vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh doanh bán lẻ; khi chưa có hệ thống này, thì thương mại điện tử chỉ giới hạn trong khâu trao đổi tin tức, còn việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc qua các phương tiện thanh toán truyền thông; hiệu quả sẽ thấp, rất có thể không đủ bù đắp chi phí trang bị phương tiện thương mại điện tử.

Bảo vệ sở hữu trí tuệ

Giá trị của sản phẩm ngày nay tập trung ở "chất xám"; tài sản của con người, của quốc gia, đang quy dần về "tài sản chất xám", thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ trở thành bảo vệ sở hữu trí tuệ. Vì thế trong việc truyền gửi các dữ liệu qua mạng nổi lên vấn đề bảo vệ sở hữu chất xám và bản quyền của các thông tin (hình thức quảng cáo, nhãn hiệu thương mại, cấu trúc cơ sở dữ liệu, các nội dung truyền gửi), ở các khía cạnh phức tạp hơn nhiều so với việc bảo vệ sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế vật thể.

Bảo vệ người tiêu dùng

Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng được đề cao trong thương mại. Quy cách phẩm chất hàng hóa, và các thông tin liên quan trong thương mại điện tử đều ở dạng số hóa, nên người mua chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể; để bổ cứu, phải có cơ chế trung gian vá giám sát đảm bảo chất lượng, là một khía cạnh đang nổi lên trước thực tiễn rủi ro đang ngày càng gia tăng trong giao dịch thương mại điện tử, xâm phạm vào quyền lợi của người tiêu dùng.

Môi trường kinh tế và pháp lý

Mỗi một quốc gia, thương mại điện tử chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý của nó được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hóa, các thanh toán điện tử, các dữ liệu có xuất xứ từ các cơ quan nhà nước, sở hữu trí tuệ hàm chứa trong thông tin trên Website, bí mật đời tư, và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống tội phạm xâm nhập), và có các cơ quan xác thực hoặc chứng nhận chữ ký điện tử, v.v...; Ngoài ra, còn đòi hỏi mọi doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ đều đã được mã hóa thống nhất; một hệ thống thuế thích hợp để xử lý các dữ liệu và các dịch vụ mua bán qua mạng; nói cách khác, đòi hỏi phải có một môi trường kinh tế đã tiêu chuẩn hóa ở mức cao, với các khía cạnh của thương mại điện tử được phản ánh đầy đủ trong quan hệ nội luật. Trên bình diện quốc tế, vấn đề môi trường pháp lý còn phức tạp hơn nữa, vì các trao đổi là xuyên quốc gia, đòi hỏi phải có sự hài hòa giữa các hệ thống pháp luật và hệ thống chính trị khác nhau.

Tác động văn hoá xã hội

Tác động văn hóa xã hội của thương mại điện tử xuất hiện khi sử dụng Internet làm công cụ giao tiếp, như khi tiến hành thương mại điện tử qua biên giới (với nước khác), hoặc nếu trong một quốc gia nhưng sử dụng Iternet, Web làm công cụ mạng. Internet có thể trở thành "hộp thư" giao dịch mua bán dâm, ma tuý, và buôn lậu; các lực lượng phản xã hội đưa lên Internet phim con heo, các tuyên truyền kích dục có mục đích đối với trẻ em, các hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, các loại tuyên truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, v.v...; Internet cũng có thể trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật đổ Chính phủ và hoặc gây rối làm loạn trật tự xã hội; ngoài ra phải tính tới tác động về cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc (nếu chỉ làm thương mại điện tử trong nước, thông qua nối mạng các doanh nghiệp, sử dụng mạng quốc gia, mà không dùng Internet, thì không cần tính tới tác động tiêu cực này; nhưng nếu không lợi dụng Internet làm công cụ giao tiếp chung, mà thiết lập các mạng riêng thì không có tính kinh tế, và việc làm thương mại điện tử với nước ngoài sẽ bị hạn chế).

Lệ thuộc công nghệ

Hoa Kỳ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông tin trên thế giới, cả phần cứng cũng như phần mềm (bao gồm phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng), chuẩn công nghệ Internet, các phần mềm tìm kiếm và trình duyệt chủ yếu cũng là của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã đi đầu và có nhiều thực tiễn về kinh tế số hóa và thương mại điện tử. Một khi thương mại được số hóa thì toàn thế giới sẽ chịu sự khống chế công nghệ Hoa Kỳ và các nước tiên tiến gần với Hoa Kỳ, là điều có thể đưa tới nhiều hệ quả.

Thương mại điện tử bao trùm một phạm vị rộng lớn các hoạt động kinh tế xã hội, và hạ tầng cơ sở của nó là một tổng hòa phức hợp của hàng chục mặt vấn đề; cho nên, tuyệt đối không nên nhìn nhận thương mại điện tử đơn thuần chỉ là việc dùng phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi buôn bán truyền thống, mà nên hiểu rằng một khi chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử thì toàn bộ hình thái hoạt động của một đất nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập quán làm việc và sinh hoạt hàng ngày.

Quy định pháp luật của một số quốc gia

Quy định của Áo

Thương mại điện tử được điều chỉnh tại Áo trước tiên là bằng Luật Thương mại điện tử (E-Commerce-Gesetz ECG), Luật bán hàng từ xa (Fernabsatzgesetz), Luật chữ ký (Signaturgesetz), Luật kiểm soát nhập hàng (Zugangskontrollgesetz) cũng như bằng Luật tiền điện tử (E-Geld-Gesetz), mà trong đó các quy định pháp luật về hợp đồng và bồi thường của bộ Luật Dân sự Áo (Allgemeine bürgerliche Gesetzbuch - ABGB), nếu như không được thay đổi bằng những quy định đặc biệt trên, vẫn có giá trị.

Quy định của Đức

Nằm trong các điều 312b và sau đó của bộ Luật dân sự (Bürgerliche Gesetzbuch – BGB) (trước đây là Luật bán hàng từ xa) là các quy định đặc biệt về những cái gọi là các hợp đồng bán hàng từ xa. Ngoài những việc khác là quy định về trách nhiệm thông tin cho người bán và quyền bãi bỏ hợp đồng cho người tiêu dùng.

Cũng trong quan hệ này, Luật dịch vụ từ xa (Teledienstgesetz) ấn định bên cạnh nguyên tắc nước xuất xứ (điều 4) là toàn bộ các thông tin mà những người điều hành các trang web có tính chất hành nghề, mặc dầu chỉ là doanh nghiệp nhỏ, có nhiệm vụ phải cung cấp (điều 6) và điều chỉnh các trách nhiệm này trong doanh nghiệp đó (điều 8 đến điều 11).

Ở những hợp đồng được ký kết trực tuyến thường hay không rõ ràng là luật nào được sử dụng. Thí dụ như ở một hợp đồng mua được ký kết điện tử có thể là luật của nước mà người mua đang cư ngụ, của nước mà người bán đặt trụ sở hay là nước mà máy chủ được đặt. Luật pháp của kinh doanh điện tử vì thế còn được gọi là "luật cắt ngang". Thế nhưng những điều không rõ ràng về luật pháp này hoàn toàn không có nghĩa là lãnh vực kinh doanh điện tử là một vùng không có luật pháp. Hơn thế nữa, các quy định của Luật dân sự quốc tế (tiếng Anh: private international law) được áp dụng tại đây.

Tại nước Đức các quy định luật lệ châu Âu về thương mại được tích hợp trong bộ Luật dân sự, trong phần đại cương và trong các quy định về bảo vệ người tiêu dùng. Mặt kỹ thuật của thương mại điện tử được điều chỉnh trong Hiệp định quốc gia về dịch vụ trong các phương tiện truyền thông của các tiểu bang và trong Luật dịch vụ từ xa của liên bang mà thật ra về nội dung thì hai bộ luật này không khác biệt nhau nhiều.

Quy định của Việt Nam

Thương mại điện tử là một lĩnh vực tương đối mới tại Việt Nam. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam ra đời khá muộn so với nhiều nước trên thế giới. Cuối năm 2005, Việt Nam mới có "Luật Giao dịch điện tử" và năm 2006 mới ra đời Nghị định hướng dẫn thi hành luật này.

Tới đầu năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 "Về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính", số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 "Quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số", số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 "Về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng".

Phương diện xuyên biên giới

Để đơn giản hóa thương mại điện tử xuyên biên giới và để bảo vệ người tiêu dùng tham gia, Chỉ thị thương mại điện tử của EU (chỉ thị 2000/31/EG) được thỏa thuận như là cơ sở luật pháp và các tiêu chuẩn tối thiểu cho cộng đồng châu Âu.

Để đơn giản hóa giao dịch, trong Liên minh châu Âu, ở những quan hệ nợ do hợp đồng mang lại, về cơ bản là có sự tự do chọn lựa luật lệ của các phái tham gia. Hợp đồng của người tiêu dùng, một trong những điều ngoại lệ, được quy định là không được phép thông qua việc lựa chọn luật lệ mà vô hiệu hóa việc bảo vệ người tiêu dùng xuát phát từ những quy định bắt buộc của quốc gia mà người tiêu dùng đó đang cư ngụ, nếu khi trước ký kết hợp đồng có chào mời rõ rệt hay một quảng cáo trong quốc gia người tiêu dùng đang cư ngụ và hoạt động.

Trong lãnh vực B2B thường là luật của người bán được thỏa thuận để đơn giản hóa. Việc cùng đưa luật của quốc gia người mua vào sử dụng là phức tạp là vì nếu như thế người bán phải đối phó với 25 luật lệ khác nhau và phần lớn lại được viết bằng tiếng nước ngoài. Thế nhưng nguyên tắc quốc gia xuất xứ cũng không phải là hoàn hảo: Người mua thường không am hiểu luật lệ của nước khác và vì thế không dễ dàng đại diện được cho quyền lợi của mình. Ngoài ra việc hành luật của từng nước thường khác nhau và người bán từ một số quốc gia nhất định hay có nhiều lợi thế hơn so với những người khác. Trên lý thuyết, mỗi nước đều có khả năng thay đổi luật lệ một cách tương ứng để đẩy mạnh nền kinh tế quốc gia.

Tuy có những mặt bóng tối này, thương mại trong Internet xuyên quốc gia tất nhiên cũng có nhiều ưu thế. Nhiều món hàng chỉ được bán trong một số nước nhất định. Người muốn mua có thể tìm được sản phẩm cần dùng trong Internet với sự giúp đỡ của các máy truy tìm đặc biệt và cũng có thể so sánh giá của những người bán trong các nước khác nhau. Một phần thì không những là giá của từng nhóm sản phẩm khác nhau mà thuế giá trị thặng dư cũng còn khác nhau, do đó mặc dù là tiền gửi hàng cao hơn nhưng việc đặt mua ở nước ngoài có thể mang lại nhiều lợi ích hơn. Trong phạm vi của EU người mua không phải đóng thuế nên phí tổn tổng cộng minh bạch cho người mua.

Nói tóm lại, thương mại điện tử xuyên biên giới mặc dầu bị ghìm lại do còn có điều không chắc chắn trong pháp luật nhưng có tiềm năng phát triển lớn. Một bộ luật thống nhất cho châu Âu quan tâm nhiều hơn nữa đến lợi ích của người tiêu dùng về lâu dài chắc chắn sẽ mang lại thêm nhiều tăng trưởng.

Xem thêm

  • Tiền điện tử
  • Chiến tranh tiền tệ
  • Tiếp thị trực tuyến
  • Chính phủ điện tử
  • Schwarz, Peschel-Mehner (Hrsg.) Recht im Internet (Luật trong Internet). Kognos Verlag, Augsburg
  • Daniel Amor: Dynamic Commerce 1. Auflage. Galileo-Press, Bonn 2001
  • Katja Richter, Holger Nohr: Elektronische Marktplätze. (Thị trường điện tử) Shaker, Aachen 2000
  • Knut Hildebrand (Hrsg.): Electronic Business dpunkt.verlag, Heidelberg 2000 (HMD 215)

Ko nguồn là xóa[sửa mã nguồn]

Bài do nhiều người tham gia biên tập, đóng góp và tuần tra giữ gìn nội dung, sai sót gì thì sửa đổi bổ sung, nhưng cái gì đúng phải giữ lại, không phải cứ nói "ko nguồn là xóa" hết rồi viết lại từ đầu đâu nhé bạn. ~ Violet (talk) ~ 06:12, ngày 6 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]

Mốc thời gian không nguồn là xóa, bạn nên tìm hiểu kỹ hơn về phần mình chỉnh sửa, mình đang tổng hợp bài, hi vọng gặp lại bạn sau một thời gian nữa để mình có điều kiện tốt nhất để chỉnh sửa, thank ! Dammio (thảo luận) 06:15, ngày 6 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]
Tôi ủng hộ cách làm việc của Dammio. Vì tôi tin là vài người đã hiểu sai hay là không rõ về từ TMDT rồi nhiều người sau cứ đi theo vết xe đổ ấy, tạo thành một sự sai lạc hay là thiếu chuẩn xác rộng lớn. Hiện tình khoa học và công nghệ thay đổi theo từng ngày, các ngành học bên Âu Mỹ cũng biến dạng, hay phân hóa, thu nhỏ hay mở rộng theo thời gian. Chứ đừng nói là một khái niệm về công nghệ như TMDT này, chắc chắn khái niệm không đóng khung chết 1 chỗ, rất có thể định nghĩa khái niệm trong bài viết cũ đã đúng trong một thời điểm nào đó nhưng bây giờ không còn chính xác 100% nữa. Vậy tại sao cứ đóng khuôn trong những mô thức và định nghĩa cũ khi lại không có nguồn chứng minh cho những đoạn suy luận có phần suy diễn và hỗn tạp kia ? Dammio cũng làm việc rất cẩn thận, lấy bài bên tiếng Anh làm chuẩn (tôi tin kiến thức bên Wi en vì bên đó nhiều người đọc và tuần tra hơn bên mình, lại có nhiều chuyên gia, và khái niệm TMDT hay là nhiều khái niệm công nghệ khác là dịch từ gốc tiếng Anh) và thêm một số cách hiểu khác từ VN (có nguồn). Những phần Dammio loại ra ngoài bài, đâu có mất hẳn, nhưng tạm lưu tại trang thảo luận này (Violet cũng thấy là trước đó cũng có nhiều đoạn khác cũng bị tạm lưu tại trang này như thế), và bất cứ lúc nào cũng có thể đem trở lại vào trong bài, nếu có nguồn. Tôi cũng mong là Dammio sẽ theo bên tiếng Anh, loại phần chính phủ điện tử và những giao dịch tương tác không liên quan đến thương mại, kinh doanh ra khỏi phần TMDT này (mà đưa vào phần giao dịch diện tử nói chung), theo chuẩn nghĩa ngữ của quốc tế; và những cách hiểu khác trong tiếng Việt (bình dân hay theo chuyên gia) có thể ghi thêm ở một phần nhỏ bên dưới, nhưng chỉ để tham khảo. Tôi cũng tin là tiếng Việt có nhiều nghĩa và cách sử dụng đặc thù, không thể dịch máy móc như bên tiếng Anh, nhất là mình còn thiếu nhiều từ ngữ khoa học, nên nhớ là tiếng Việt có nhiều từ ngữ có nghĩa không rộng như từ tương xứng tiếng Anh. --Langtucodoc (thảo luận) 06:34, ngày 6 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]
Bạn Dammio cứ mạnh dạn sửa bài, nếu chứng minh là có nguồn (Nhưng mong bạn ưu tiên dùng nguồn tiếng Anh, tôi tin là chuẩn theo nghĩa ngữ quốc tế hơn), theo phương châm Wikipedia:Táo bạo. --Langtucodoc (thảo luận) 07:03, ngày 6 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]

Nội dung trộn[sửa mã nguồn]

Trong quá trình trộn, một số nội dung sử dụng Wikibooks làm nguồn tham khảo thứ cấp + một số nguồn khác. Dammio (thảo luận) 05:13, ngày 7 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]

Một lượng lớn bài viết cũ được đẩy sang bài E-business (kinh doanh điện tử) theo chuẩn thế giới, E-business là tập cha của E-Commerce. Dammio (thảo luận) 15:44, ngày 7 tháng 5 năm 2012 (UTC)[trả lời]

Danh sách các trường đào tạo[sửa mã nguồn]

Tại sao cứ phải chèn các trường ở VN đào tạo về TMDT làm gì? Đây là bài tổng quát cơ mà?? Nếu cần thì hãy tạo bài riêng về TMDT ở VN hay danh sách các trường đào tạo ở VN chứ?

Sau khi làm xong danh sách này, chắc phải trăm trường ghi vào đấy thành 1 danh sách bách khoa, các thời trước bài viết tốt vậy mà?  A l p h a m a  Talk 15:35, ngày 17 tháng 4 năm 2017 (UTC)[trả lời]

Tạm xóa[sửa mã nguồn]

Tôi tạm xóa phần lớn nội dung do thành viên mới thêm với lý do làm xáo trộn toàn bộ trật tự bài, khoảng 10-30% là copy từ bên ngoài kèm theo 1 số link yếu và cũng khá nhiều đoạn không có dẫn chứng bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời thảo luận thêm nếu có.  A l p h a m a  Talk 23:42, ngày 20 tháng 6 năm 2020 (UTC)[trả lời]