Thành viên:Họa còi/thaoluanxtcuahp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Định nghĩa.[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng là một loại vũ khí. Xe tăng là xe quân sự có nhiệm vụ chiến đấu chống lại các loại xe quân sự khác bằng súng mạnh và giáp tốt.

"Binh chủng Thiết Giáp", "bộ đội Thiết Giáp" dùng để chỉ loại quân dùng xe tăng. "Binh chủng hợp thành" là loại lục quân có nòng cốt là bộ binh cơ giới, xe tăng, pháo tự hành tấn công.

Một số ý kiến sai lệch về xe tăng.[sửa | sửa mã nguồn]

Khác biệt cơ bản giữa xe tăng với pháo tự hành chống tăng[sửa | sửa mã nguồn]

Ý kiến cho rằng, phân biệt "pháo tự hành không có tháp pháo quay" nên khác xe tăng là sai. Một số loại pháo tự hành chống tăng và pháo tự hành khác cũng có tháp pháo quay được. "Xe diệt tăng"-"tank destroyer", còn được gọi là "pháo tự hành chống tăng", "xe khu trục"... hồi thế chiến 2 là một loại "pháo tự hành lắp nòng dài", chứ không cứ là "không có tháp pháo quay". ZIS-30 Liên Xô (cũ) hồi thế chiến 2 không có tháp pháo, đúng hơn là tháp pháo chỉ có vách chắn trước, như một khẩu pháo thường đặt trên xe xích, nhưng quay được. M-10 của Anh hồi đó nếu như định nghĩa trên của người viết thì là xe tăng, nó đầy đủ tháp pháo bọc thép quay, nhưng M-10 vẫn là "tank destroyer". Ngày nay, nhiều pháo tự hành tấn công có tháp pháo quay được 360 độ có ổn định tầm hướng lắp pháo nòng dài, như khẩu PzH 2000. Các xe diệt tăng có thể không có tháp pháo, chỉ có giá súng nhưng quay được 360 độ như các xe bắn tên lửa chống tăng hiện đại. Ngược lại, ngày nay có xe tăng chỉ có giá súng đúng nghĩa, không có tháp pháo có người, ví dụ như T-95 Nga hiện nay. Stridsvagn 103 là xe tăng chủ lực (MBT) của Thụy Điển, hoàn toàn không có tháp pháo quay. Các xe trong "đội quân tiến công thọc sâu" của "binh chủng hợp thành" dưới đây đều là xe có tháp pháo lớn, nâng hạ quay tốt, diệt tăng cũng được.

Trong thế chiến 2, xuất hiện nhiều "Xe diệt tăng"-"tank destroyer" do khả năng sản xuất trong chiến tranh hạn chế, xe này rẻ hơn nhiều tăng. Ngày nay, các "tank destroyer" thế hệ mới xuất hiện rất nhiều, mang tên lửa chống tăng có điều khiển và hệ thống chiến đấu đi kèm chúng. Người ta chế tạo nhiều không phải mục đích rẻ như hồi thế chiến, mà do những đặc điểm khác biệt của tên lửa chống tăng có điều khiểnpháo chống tăng.

Tên xe tăng xuất phát từ việc ngụy trang các toa xe chở tăng.[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng không phải có tên ngụy trang là tăng (tank, xuất xứ ban đầu nghĩa là thùng), mà những xe đầu tiên trông như một con thuyền lộn ngược, đúng nghĩa tăng của nó (tank=thùng sắt, tầu thủy...). Sau này, người ta mới cải tiến xe tăng như ngày nay. Xe chiến nói chung đã có mặt từ lâu trên chiến trường. Những xe cơ giới vũ trang đầu tiên xuất hiện khoảng đầu thế chiến 1. Một trong những chiếc xe bọc thép cơ giới đầu tiên là "Tzar-tank" do người Nga sản xuất. Xe có một nồi hơi của đầu kéo tầu hỏa và tháp pháo có nhiều lỗ châu mai, 2 súng máy 7,92mm, nặng 40 tấn. Từ đó đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ 2 có rất nhiều kiểu xe bọc thép khác nhau được chế tạo. Thời đó, người ta gọi tất cả những xe cơ giới bọc thép là xe tăng (tank).

"Một số nước như Pháp, Liên Xô coi trọng chức năng trợ chiến cho bộ binh nên chế tạo một số loại xe vỏ thép rất nặng, hỏa lực rất mạnh, cơ động rất kém..."[sửa | sửa mã nguồn]

Pháo phòng không Flack 88mm kiểu 1937, tỷ lệ chièu dài nòng cal=56. Sau này nòng đặt trên xe tăng Đức.
Tập tin:Soviet Tank T-34.jpg
Xe tăng T-34 đầu chiến tranh. Pháo 76mm
Xe tăng Panzer-IV đầu chiến tranh. Pháo KwK 40 CaL=48.
M3A3 (Stuart V). Súng 37mm cal 53,5. Súng nòng dài nhưng quá nhỏ.

Từ "xe tăng" đúng nghĩa hiện đại ra đời sau chiến tranh Tây Ban Nha, nhưng chỉ sau những trận đánh đầu tiên của Thế chiến 2 chúng mới được các nhà quân sự là lãnh đạo chính trị chú ý cải tiến và sản xuất số lượng lớn. Ví dụ như chiếc T-34 nổi tiếng. Mẫu xe A-20, tiền thân của T-34 được một nhà thiết kế vẽ tại Kharcov năm 1937. Nhưng tốc độ nghiên cứu thử nghiệm rất chậm, chỉ đến năm 1941 nó mới được sản xuất với số lượng gần 3000 chiếc (tuy nhiên, lúc chiến tranh xảy ra rất ít xe chạy được). Xe này được thiết kế song song với Panzer-IV của Đức. Trước thời kỳ này, người ta phổ biến chế tạo những xe cơ giới trợ lực bộ binh trên chiến trường. Các xe lúc đó mang nhiều súng, giáp mỏng, súng nòng ngắn và cỡ nòng nhỏ, mục tiêu bắn là bộ binh. Cũng có một số xe khác xe tăng ngày nay ở thái cực khác. Ví dụ, KV-1 (năm 1939) được coi là xe tăng lừng danh đầu chiến tranh, nó có giáp rất dầy, pháo cỡ nòng lớn nhưng nòng ngắn. KV-1 tốt nhưng quá tốn thép so với hiệu quả, nó đóng vai trò to lớn đầu chiến tranh, hậu duệ của nó chính là dòng IS. Sự xuất hiện của nhiều loại xe cơ giới bọc thép dẫn đến yêu cầu tiêu diệt chúng, xe để làm nhiệm vụ đó chính là xe tăng. Như vậy, xe tăng là vũ khí diệt xe bọc thép, và yêu cầu cao nhất với xe tăng là chiến đấu đối địch loại xe bọc thép sát thủ, chính là nhiệm vụ đấu tăng. Trong thế chiến 2, xe bọc thép các loại quyết định chiến trường, mà số phận của chúng được quyết định bởi xe tăng, vậy nên thế chiến 2 được quyết định bởi xe tăng, bởi các trận đấu tăng. Trận đấu xe tăng Prokhorovka ngày 12-7-1943 là trận đánh quyết định của chiến dịch Kursk, chiến dịch bản lề của chiến tranh.

Đầu thế chiến 2, khi quan niệm về xe tăng đúng nghĩa hình thành nhanh chóng, người ta chưa có nhiều súng lớn nòng dài và đạn cho chúng. Các xe tăng mạnh của Liên XôĐức lúc đó cải tiến những súng phòng không cho lên tăng, đó là những khẩu súng có tỷ lệ chiều dài/cỡ nòng (cal) từ gần 50 đến 70. Ví dụ như các khẩu Pak 88mm (Cal=56, còn gọi Pak 37 L56) phòng không sau đặt trên trên Panzer V. Các súng 57mm, 76mm, 85mm trên các loại T-34. Còn trước đó, ví dụ như KV 152mm, xe tăng giáp rất tốt, mang đại bác lớn nhưng nòng ngắn, hạn chế khả năng diệt tăng địch. Đầu thế chiến 2, một số xe T-34 mang pháo 76mm L-11 Cal=31, sau đổi lấy pháo F-34 CaL=42. Khi chưa có F-34, một số xe đầu chiến tranh Vệ Quốc mang pháo 57mm ZiS-2 57mm CaL=71 (có lẽ là pháo dài nhất trong các loại pháo tăng).

Khi Chiến tranh thế giới 2 xảy ra, chỉ có Liên XôĐức sở hữu những chiếc xe tăng: T-34, KV, Panzer-IIIPanzer-IV. Lúc này, người Đức đã sản xuất ổn định và sử dụng thành thạo xe tăng, còn người Nga thì vẫn cãi cọ về vai trò của cơ giới. Xe tăng KV-1 76mm có giáp tốt nhưng cơ động kém và quá tốn thép. Trong giai đoạn đầu chiến tranh thế giới 2, người Đức không có xe nào bắn thủng được KV, chỉ có thể tập trung bắn làm choáng tổ lái bên trong. Lúc này, người Đức chỉ có thể bắn hỏng được KV bằng súng phòng không Pak 88mm, điều này thúc đẩy việc cải tiến súng này đặt trên tăng cùng với chế tạo Tiger. Cũng giai đoạn đầu chiến tranh, khi Hồng Quân rút lui khắp các mặt trận thì T-34 lội ngược dòng, gây những tổn thất lớn cho quân Đức, như trận đánh bắt sống 400 xe quân sự Đức.

Panzer-IVT-34 chứng minh xe tăng phải như thế nào. Lúc này, những nước Anh, Mỹ mới vội vàng thiết kế xe tăng đầu tiên của họ. Một thử nghiệm nữa như chiếc T-95 Mỹ mang pháo 105mm nòng dài, bốn xích, nặng 95 tấn, giáp dầy 300mm. Xe cơ động rất kém, chứng tỏ nhược điểm trong chiến tranh, sau này được dùng như pháo tự hành với tên T-28.

"Xe Renault FT17 đã có bố trí cấu tạo về cơ bản rất giống với xe tăng ngày nay với tháp pháo có thể quay nhanh và nâng hạ góc bắn..."[sửa | sửa mã nguồn]

Xe T-35 (năm 1933-1939 Liên Xô sản xuất 61 chiếc) có số lượng rất ít ỏi, là một thử nghiệm của xe bọc thép hỗ trợ bộ binh, xe lớn nhiều tháp pháo súng nhỏ, xe này như dòng C2 Pháp.

Ngày nay, người Pháp thường tự hào rằng trước chiến tranh thế giới 2 họ là nước sản xuất xe tăng thứ 2 thế giới sau Liên Xô. Nhưng thực tế, họ không hề sản xuất được chiếc tăng nào lúc đó. R-35 là những xe mang súng 37mm nòng ngắn của họ liệu hơn gì lựu đạn cầm tay. (Gọi là súng cối 37mm cũng được vì cal=21). AMC-35 mang súng 40mm cal 32, mạnh hơn tí, là "xe tăng" chủ lực của Pháp trước chiến tranh thế giới 2. Churchill-III nặng 40 tấn nhưng chỉ mang được pháo tối đa 57mm nòng dài, là xe tăng đầu tiên của người Anh mãi trong chiến tranh thế giới 2 mới có, ngay cả lúc đầu Churchill-III mang pháo 75mm nòng ngắn cũng khó mà chiến đấu, xếp loại pháo tự hành tấn công. Churchill-IChurchill-II cũng mang pháo 40mm. Xe M3-Lee M3A3M3A5 thực ra là pháo tự hành tấn công 75mm nòng ngắn. Đến M4 mới là tăng hạng trung. M3 General Stuart mang pháo nòng dài, có hình dáng giống xe tăng, nhưng cỡ nòng quá nhỏ 37mm.

Xe Renault FT17 hay AMC-35 không phải là một xe tăng đúng, nó chỉ là một mô hình vô dụng của xe tăng do súng quá nhỏ, thiết kế hoàn toàn trái ngược với yêu cầu đấu tăng. Coi xe như vậy là xe tăng dẫn đến thất bại nhanh chóng của PhápBa Lan trong chiến tranh thế giới 2. Súng của nó chỉ đủ sức diệt bộ binh, vô ích với nhiệm vụ bắn đạn xuyên vỏ xe tăng đúng nghĩa. Các nước phát triển khác như Mỹ, Anh cũng có quan điểm sai như vậy. Nhiều xe họ sản xuất rất nặng nhưng lại mang súng nòng ngắn, hoàn toàn không có xe măng súng nòng dài bắn đạn xuyên.

Các đặc điểm chiến thuật.[sửa | sửa mã nguồn]

Săn mồi. Nhiệm vụ đấu tăng.[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng được thiết kế chế tạo với những yêu cầu đầu tiên: tính năng "săn mồi" và chống "bị săn". Xe tăng cần thỏa mãn bởi các đặc tính cơ động và đối kháng: tốc độ và khoảng cách di chuyển, tốc độ đi trên đường gồ ghề, khả năng vượt các vật cản, khả năng ổn định để đảm bảo tính năng chiến đấu trên đường di chuyển, khả năng xuyên được giáp tốt tầm xa, bắn nhanh và khả năng ngắm bắn trong tấn công, khả năng phòng thủ... Tính cơ động được đảm bảo bởi hệ thống treo, bánh xích và các đệm cao su, động cơ khỏe với hệ thống truyền động tin cậy. Tính năng chién dấu khi di chuyển dựa trên hệ thống ổn định hướng súng chính xác mạnh mẽ, trong khi các phương tiện dẫn bắn nhẹ hơn có hệ thống ổn định riêng. Để chống lại đạn xuyên giáp, xe tăng cần có kết cấu vững vàng với giáp dầy và nghiêng. Để tạo lợi thế khi chiến đấu, giáp thép được làm thiên về phía trước, nơi khả năng trúng đạn cao... Để tiêu diệt xe thiết giáp hạng nặng đang di chuyển, xe tăng cần có đường đạn thẳng, ít tản mát, tốc độ đầu đạn cao, tốc độ lấy đường ngắm cao với tháp pháo quay nhanh và ổn định tháp pháo với tốc độ di chuyển của xe lớn trên đường gồ ghề. Trước chiến tranh thế giới 2, xe tăng tách ra khỏi nhóm các xe bọc thép khác. Đặc điểm đầu tiên là súng. Thay cho nhiều súng nhỏ nòng ngắn bắn trái phá, người ta tập trung sức mạnh cho một khẩu súng lớn nòng dài bắn đạn xuyên với hệ thống ngắm bắn tốt chống mục tiêu di chuyển nhanh, giáp tốt.

Nhiệm vụ, yêu cầu thiết kế chính xác của xe tăng.[sửa | sửa mã nguồn]

Từ đầu Thế chiến 2, từ xe tăng (tank) chỉ còn dành để chỉ thứ xe bọc thép dầy diệt xe bọc thép, chứ không còn để chỉ tất cả các loại xe bọc thép như trước đây. Thời điểm đó có thể coi là thời điểm khẳng định cái tên "xe tăng". Xe tăng được thiết kế thỏa mãn cả hai nhiệm vụ, chế thắng trong đấu tăng và sống sót trong môi trường bộ binh phức tạp.

Binh chủng hợp thành.[sửa | sửa mã nguồn]

Pháo tự hành tấn công Đức, PzH2000.
Xe chở bộ binh (IFV) Nga, BMP-1.
Xe tăng T-90 Ấn Độ.

Trong khi xe tăng hình thành thì các xe bọc thép khác cũng hình thành. Các xe hỗ trợ bộ binh làm nhỏ hơn, giáp mỏng và mang nhiều súng máy hay súng cối diệt bộ binh (IFV, Infantry Fighting Vehicle). Đại bác tự hành giảm sức cơ động để đổi lấy cỡ nòng súng to (và có thể nòng ngắn để đổi lấy cỡ to nữa), bắn đạn trái phá nặng hơn, đường đạn cong, còn gọi là "pháo tự hành tấn công"-"asssault gun" để đánh chiếm các công sự, hoặc "pháo bắn trực tiếp" dịch từ tiếng Anh "howitzer" (self propelled howitzer). (Xem thêm súng). Ví dụ của xe hỗ trợ bộ binh ngày nay là những xe bọc thép chở bộ binh Bradley (Mỹ) hay BMP (Nga). Chúng cũng có tháp pháo nhưng mang súng máy hạng nặng (25mm, Bradley) hay súng cối bắn nhanh (BMP, Nga). Ví dụ về pháo tự hành tấn công như M109 các phiên bản (M109A6 "Paladin", PzH2000 Đức). 2S1 Gvozdika 122mm, 2s31 Vena 120mm, 2s19 Msta 152mm, 2s3 Akatsia 152mm Nga.

Ý kiến sai cho rằng: "Xe tăng dể tấn công thọc sâu..."[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng (tank), IFV, pháo tự hành tấn công...hợp thành đội quân tấn công, thọc sâu. Như vậy, nhiệm vụ chính của tăng không phải là nhiệm vụ tấn công thọc sâu, mà chỉ bảo vệ cho những xe khác làm nhiệm vụ đó, hoặc đối đầu với nhiệm vụ đó, chặn địch. Nhiệm vụ tấn công cơ bản được thực hiện bởi bộ binh. Tấn công thọc sâu được thực hiện bởi bộ binh cơ giới (đi trên xe IFV). Đội quân tấn công này xẽ bị xe tăng đối phương đánh chặn, cần những xe tăng quân ta đi kèm làm nhiệm vụ vệ sĩ. Đội quân này cũng cần pháo tự hành tấn công đi cùng để đánh chiếm công sự. Đôi khi, xe tăng cũng làm được nhiệm vụ của pháo tự hành tấn công và hỗ trợ bộ binh như IFV, nhưng không phải mặt mạnh của tăng là vậy. Đội quân cơ động thọc sâu này gọi là "binh chủng hợp thành", nòng cốt của lục quân hiện đại.

Thói quen dùng "Thiết Giáp" trong Tiếng Việt.[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, nhiều người Việt nhầm vì trong tiếng Việt, từ Hán-Việt "Thiết Giáp" dùng chỉ xe tăng. Nhưng từ "Xe Bọc Thép" thường lại dùng để chỉ IFV bởi cách nói chuyện thường, chỉ chung các xe có giáp trong văn viết. Mặc dù, về ngôn ngữ cổ, diễn Hán-Nôm thì "Thiết Giáp"="Bọc Thép".

Ý kiến sai: "Sau Chiến tranh thế giới 2 các loại xe tăng hạng nặng cũng tuyệt chủng..."[sửa | sửa mã nguồn]

Coi các xe tăng hạng nặng như IS-2 sau chiến tranh tuyệt chủng là hoàn toàn sai lầm. IS-2 sau này trở thành kiểu mẫu của xe tăng hiện đại, rất giống nhiều loại xe tăng của Nga (Liên Xô cũ) hay Mỹ. Còn Panzer có hậu duệ là những xe Leopard, chuyển từ hạng trung sang hạng nặng lúc Panzer-IV chuyển thành Panzer-V. Sau thế chiến 2, trình độ kỹ thuật không cho phép chế tạo được nhiều xe tăng nặng có hệ truyền động tin cậy. Cộng thêm cầu cống đường phà phổ biến không cho phép các xe 50 tấn di chuyển dễ dàng. Vì vậy, cũng như trong thế chiến 2, người ta chế tạo hai loại xe tăng phổ biến là xe hạng trung và xe hạng nặng. Xe hạng nặng vì các lý do trên có số lượng ít hơn, mặc dù sức chiến đấu cao và khả năng sản xuất khá thoải mái. Xe tăng hạng nặng Nga bắt đầu là KV-1, sau đổi tên thành dòng IS được cải tiến đến đời cuối là T-10 (còn gọi IS-10), xe T-34 Nga được cải tiến đến T-55. Sau đó, hai dòng T-62T-64 Nga đã có kích thước như nhau, chúng hòa nhập làm 1 thành MBT (Main Battle Tank-xe tăng chiến đấu chủ lực). Nhình chung, MBT ngày nay có kích thước của tăng hạng nặng hồi sau thế chiến 2, nếu nói một trong hai loại tuyệt chủng, thì phải nói tăng hạng trung mới đúng, còn các MBT ngày nay là hậu duệ của tăng hạng nặng.

MBT, Main Battle Tank, Xe tăng hiện đại.[sửa | sửa mã nguồn]

Định nghĩa MBT.[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1960 đánh dấu sự ra đời của xe tăng hiện đại. Cùng với T-64 Liên Xô cũ là sự xuất hiện trở lại của xe tăng Đức Leopard. Hai loại xe nằy nhanh chóng trở thành kiểu mẫu. Hai nước NgaĐức trở thành nòng cốt trong việc phát triển xe tăng. MBT hiện đại là hậu duệ của tăng hạng nặng trong Thế Chiến 2 với các đặc điểm mới. Định nghĩa "quá đầy đủ" của xe tăng là: "Xe bọc thép hạng nặng dùng để chiến đấu với xe cơ giới."

Ý "Xe bọc thép hạng nặng" dùng để phân biệt với các xe chống tăng khác, như xe diệt tăng dùng tên lửa (ví dụ hệ thống bắn Khrizantema đặt trên thân xe BMP-3 9К123 ХРИЗАНТЕМА-С. Các máy bay chuyên dùng chống tăng như SU-25, A-10 cũng được gọi là "Máy bay chống thiết giáp hạng nặng". "Chiến đấu với xe cơ giới" cũng để phân biệt với các xe trận khác như pháo tự hành tấn công hay IFV. Các IFV có thể bắn chết xe tăng khi gặp cơ hội, nhưng không thể chiến đấu đối kháng vì giáp chúng mỏng, phòng thủ yếu, kém linh hoạt... Nói cách khác, các IFV chỉ có thể là "xe diệt tăng" (tank destroyer) chứ không phải là "xe tăng chiến đấu" (battle tank).

Cái tên MBT xuất hiện trong đội hình 3 loại xe tấn công, thọc sâu nói trên. Loại nào trong đó cũng diệt được xe, nhưng lực lượng đối kháng đấu tăng (battle) chủ lực (main) là xe tăng (tank).

Ngoài đại bác nòng dài và giáp, xe tăng còn có các phương tiện chiến đấu nữa như "súng dồng trục" là khẩu đại liên luôn cùng hướng với súng lớn nòng dài chính. Hồi Thế chiến 2, khẩu này tỏ ra hữu dụng trong thời điểm ta đang bận nạp đạn hoặc tiêu diệt tổ lái đối phương đang thoát khỏi mục tiêu đã bị bắn hỏng. Các xe từ JS-2 có súng phòng không 12,7mm đặt trên nóc, nay được dièu khiển từ xa, vẫn đang được dùng và hiện đại hóa. Ngoài ra T-34 còn có một súng máy cho người sử dụng điện đài ngồi cạnh lái xe, nay đã bỏ. Một số xe còn có lỗ châu mai tháp pháo, súng máy hậu tăng cường khả năng tự vệ trước bộ binh, nay cũng không dùng.

Tiến công.[sửa | sửa mã nguồn]

Đạn.[sửa | sửa mã nguồn]

Những đạn tăng đầu tiên được dùng hồi thế chiến.[sửa | sửa mã nguồn]

APERS, anti-personnel, đạn chống bộ binh.[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là đạn đầu tiên mà các xe bọc thép sử dụng, trước khi chúng trở thành xe tăng. Đạn hộp bi 3Sh-7 Liên Xô cũ sản xuất nặng 23kg, chứa 3,4 kg thuốc nổ RDX trộn nhôm, khi nổ bắn ra 4700-4800 mảnh 1,26g đi 1000m/s. Sau này, các dạn này được bổ sung ngòi điện tử V-429E trong hệ thống Ainet. Khi đạn dược hệ thống nạp đạn tự động nhồi vào súng, một hệ thống điện tử không tiếp xúc lập trình cho ngòi nổ, đạn sẽ nổ theo khoảng cách yêy cầu. Điều này rất quan trọng khi bắn máy bay. Đạn này nay vẫn dược Nga sử dụng rộng rãi nhưng phương Tây thì ít.

AP, Armour Piercing, đạn xuyên giáp.[sửa | sửa mã nguồn]
Hình vẽ cắt bổ một quả đạn AP. 1 kim lọai mềm nhẹ. 2 hợp kim thép cứng khoan mục tiêu. 3 liều nổ phá. 4 ngòi. 5 đai đạn (để miết vào rãnh xoắn).

Ban đầu, xe tăng bắn đạn trái phá như pháo tự hành tấn công. Sau đó, xe bắn đạn xuyên bằng thép đúc, liều nổ phá giảm đi, khối lượng đạn nhỏ để có đường đạn tốt. Đạn này sau phủ lớp kim loại mềm ở mũi để giảm phân tán lực xuyên của giáp nghiêng. Những cải tiến tiếp theo phủ một lớp kim loại nhẹ mềm dầy mũi nhọn ở đầu, đằng sau là phần hợp kim thép cứng, đưa trọng tâm đạn ra sau, làm đường đạn bắn từ nòng xoắn tốt hơn.

Đạn được dùng rộng rãi cho các loại đại bác xuyen giáp trong Thế chiến 2. Đạn được người Đức phát kiến, sử dụng đầu tien trong Hải quân đầu thế kỷ 20.

APCR, Armour Piercing Composite Rigid, đạn xuyên giáp vật liệu phức hợp cứng.[sửa | sửa mã nguồn]

Trong trận chiến Maxcơva 1941 lần đầu tiên xuất hiện đạn lõi tỷ khối lớn do quân Đức sử dụng: một thanh volphram được bọc trong vỏ kim loại mềm, khi gặp giáp vỏ mềm tụt ở lại ngoài giáp. Người Nga tìm thấy đạn này trong xác xe sau trận đánh, ngay lập tức, toàn thế giới tổ chức ngăn chặn nguồn cung vonphram của Đức, chủ yếu từ Trung QuốcNam Mỹ. Đạn có lượng nhỏ hơn AP, sơ tốc cao hơn, đường đạn tốt hơn. Tỷ khối lớn cho phép sức xuyên tăng. So với đạn dưới cỡ nòng sau này, đạn APCR khi bay trong không khí mang theo cái vỏ bằng kim loại mềm nhẹ nên tổn thất vận tốc lớn.

Tên Mỹ của APCR là High Velocity Armour Piercing (HVAP).

APCNR, Armour-piercing, composite non-rigid. Đạn xuyên giáp phức hợp không cứng.[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Thế chiến 2 cũng có súng chống tăng nhỏ nòng nón bắn đạn dưới cỡ nòng đơn giản không cần vỏ nhẹ. Đạn có lõi mật độ cao nhưng vỏ mềm, đạn sẽ bị tóp nhỏ trong nòng nóng. Điều này làm giảm đường kính đạn. Nhược điểm là không tương thích với đại đa số pháo có nòng hình trụ, nòng chóng hỏng, không thể tăng động năng đạn. "Littlejohn adaptor: là đoạn tóp nhỏ nòng của quân Anh dùng cho pháo QF 2pounder (40 mm).

Đạn xe tăng hiện nay.[sửa | sửa mã nguồn]

HE, High Explosive, đạn nổ mạnh, trái phá.[sửa | sửa mã nguồn]

High Explosive, đạn nổ mạnh. Đạn sử dụng để bắn sập công trình, còn gọi là trái phá. Đạn có vỏ thép tốt để xuyên vào trong mục tiêu mới nổ, không vỡ khi va dập. Đạn có ngòi chọn 3 chế độ đợi nổ: chạm mặt mục tiêu nổ, xuyên vào trong bê tông chừng 1-2 mét nổ, xuyên sâu mới nổ. Ba chế độ đó dùng cho các loại công trình khác nhau. Mảnh đạn có sức sát thương lớn. Có nhiều đạn kết hợp APERS và HE, gọi là HE-FRAG.

HEAT, High Explosive Anti Tank, đạn chống tăng dùng thuốc nổ mạnh, đạn lõm.[sửa | sửa mã nguồn]
Tập tin:X heat3BK 31 HEATFS.jpg
Đạn HEAT-FS 3BK31 125mm. Nga, Ucraina
Đạn HEAT-FS 3BK29 125mm. Nga, Ucraina

Nhờ những chất nổ mới, ổn định và mạnh như HMX, người ta hoàn thiện đạn lõm, HEAT. Đạn lõm sơ tốc thấp, đường đạn cong, phân tán mạnh nhưng khi phát nổ nó tán rộng sức sát thương ra xung quanh như trái phá và sức xuyên không phụ thuộc nhiều vào tốc độ gặp giáp. Trong thế chiến 2, đạn này chưa được sử dụng bắn từ nòng xe tăng do thuốc nổ kém và không chống được phát nổ ngoài ý muốn.

Đạn HEAT-FS là đạn ổn định cánh đuôi. Đạn BK Nga các đời khi ra khỏi nòng cánh đuôi xòe ra. Các đuôi đặt hơi xoáy như đạn cối hay APFSDS bắn từ nòng trơn để bù sai số chế tạo. Đạn HEAT Nga phát triển hơn các nước khác, hiện đã sử dụng rộng rãi liều nối dài đặt ở đầu đạn HEAT chống giáp phản ứng nổ ERA, trong khi các nước khác mới bắt đầu áp dụng.

Đạn HEAT có sơ tốc thấp và tản mát mạnh so với APDSFS. Nhưng đạn không giảm sức xuyên theo tầm. Đặc biệt khi dùng chống công trình, công sự thì đạn lợi thế hơn APDSFS. Phương Tây kết hợp đạn chống bộ binh và đạn xuyên lõm.

ATGM, Anti Tank Guided Missle, tên lửa chống tăng có điều khiển.[sửa | sửa mã nguồn]
Tập tin:T90 6s.jpg

Từ thập niên 1960 có nhiều xe tăng bắn đạn tên lửa có điều khiển từ nòng chính mang đầu xuyên lõm ATGM. Đạn này cần hệ thống dẫn bắn và ổn định tháp pháo hiện đại. Đạn tên lửa có điều khiển dễ gây nhiễu, dễ bắn chặn bằng APS và dễ giảm sức xuyên bởi ERA. Hiện nay, hầu hết các đầu nổ lõm Nga và một số của phương Tây có hai tầng để chống lại ERA. Đạn cũng có khả năng sát thương lớn. Khi bắn được thì đạn có độ chính xác rất cao, ngày nay, đây là loại đạn duy nhất đưa tầm diệt mục tiêu thiết giáp hạng nặng đang chuyển động lên 4, 5km và còn hơn nữa. Một số xe tăng ngày nay cũng được trang bị thêm các ổ phóng ATGM ngoài nòng chính, tăng khả năng đối phó với các mục tiêu phức tạp và dùng nhiều loại đạn, khí tài.

APDS, Armour Piercing Discarding Sabot, đạn xuyên có guốc giảm cỡ nòng.[sửa | sửa mã nguồn]

Đạn lõi cứng này sau trở thành đạn guốc-sabot, đạn xuyên giáp xuất hiện lần đầu năm 1944 trong quân Anh. Đạn là một mũi tên xuyên (KE, kinetic energy penetrator) có đường kính nhỏ hơn cỡ nòng, các guốc đỡ đạn trong nòng văng ra sau khi bắn, đạn không mang liều nổ mà chỉ có một liều cháy dẫn đường. Trong những năm 1960-1970, người ta hoàn thiện đạn sabot, sử dụng carbua-vonphram và DU. Carbua-vonphram là một trong những chất cứng nhất chế tạo được, tỷ khối 15,8 (thép là 7,8). Đạn Carbua-vonphram đạt tỷ khối trung bình 13,5. Đạn DU có vỏ là hợp kim 3/4 titan, 1/4 uran, trong là uran nén tỷ khối chung đạt đến 19,5, những đạn có nhiều lớp như vậy được goi là composite. Các đạn súng nhỏ không nén được như đạn tăng sử dụng các hợp kim staballoy gốc DU, như 99.25%DU-0.75%Titan. Một số hợp kim không gỉ cứng dùng làm đạn nhỏ như AG17 có 20.00% măng gan, 17.00% crôm, 0.30% silic, 0.03% carbon, 0.50% ni-tơ, and 0.05% mô-luýp-đen, còn lại là kim loại khác. Đạn này có khả năng xuyên ổn định khi gặp các loại giáp phức tạp, sơ tốc rất lớn (trêm 1400m/s), đường đạn tốt nhưng sức xuyên giảm mạnh theo tầm bắn. Các tăng hiện đại chỉ đấu sabot ở mặt trước được tầm dưới 2km.

Hiện tại, đạn phát triển theo hướng tăng độ cứng. DU-Ti được thay bằng các hợp kim DU+ kẽm+ crôm +nicken. APDS-FS là đạn xuyên nhưng có sát thương, có thể bằng một liều nổ nhỏ đi theo. APDS-T là đạn xuyên có dẫn đường. APDS-DU sau khi xuyên vào trong xe tan thành bột và cháy cho nhiệt lượng cao, sát thương lớn. Đạn APDS được chế tạo và sử dụng nhiều từ sau Thế chiến 2 đến thập niên 1960. Khi nâng năng lực của đại bác nòng dài bắn đạn xuyên, đạn APDS mài thành nòng dữ dội, giảm tuổi thọ. Đồng thời, do đường kính KE nhỏ nên quán tính quay không đảm bảo đường đạn tốt. Ngày nay chỉ được dùng cho xe tăng cổ, các loại pháo chống tăng cổ.

APFSDS, Armour Piercing Fin Stabilised Discarding Sabot, đạn xuyên có guốc giảm cỡ nòng ổn định cánh đuôi.[sửa | sửa mã nguồn]
Một viên đạn APFSDS ở thời điểm tách guốc, liều dẫn đường hoạt động.

Do thanh xuyên KE có đường kính nhỏ và dài nên quán tính quay nhỏ, hiệu ứng con quay đạt được trong không khí nhỏ, người ta chuyển sang ổn định cánh đuôi thay cho ổn định con quay. Đạn APFSDS bắn từ súng nòng trơn, ổn định cánh đuôi, cánh đuôi có thể đặt hơi chéo, làm đạn quay chậm để bù các sai số chế tạo, đường đạn tốt hơn. Đây là đạn thanh xuyên chính được dùng hiện nay. Đạn cũng được bắn từ nòng xoắn, lõi cứng quay được trong guốc, nên không quay khi đi trong nòng. Đạn có sabot được dùng lần đầu trong súng phòng không, không phải để xuyên giáp, Đức hồi Thế chiến 2.

Đạn APFSDS-DU M829A1 120mm Mỹ, biệt danh "Silver Bullet", đạn bạc.

Tập tin:M829.gif Tập tin:M829a1.jpg

Súng.[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu Thế chiến 2 đánh dấu việc xe tăng bắt đầu sử dụng đại bác nòng dài bắn đạn xuyên, đó là một trong những đặc điểm chính phân biệt xe tăng với các xe trận tấn công khác. Lúc đó, đạn xuyên bắn từ xe tăng có sơ tốc khoảng 800m/s-900m/s, cá biệt có một số loại súng đạn đạt trên 1km/s một chút. Đường đạn thẳng, thời gian đạn bay đến mục tiêu ngắn, sức xuyên tốt là những yêu cầu cơ bản của súng chính trên xe. Sau này, khi nâng sơ tốc, súng nòng xoắn tỏ ra kém bền. Vì vậy, xe tăng hiện đại thường sử dụng đại bác nòng trơn. Đạn xuyên có guốc (sabot) giảm cỡ cho phép đổi chiều dài nòng lấy cỡ nòng, nên tỷ số chiều dài/cỡ nòng (CaL) không cần quá cao, ngày nay thường ở khoảng 50/60. Các xe tăng hiện đại hiện nay bắn đạn xuyên có guốc (sabot) giảm cỡ sơ tốc 1750m/s-1850m/s. Việc ổn định tầm hướng của súng được nghiên cứu trong thế chiến, sau đó được hoàn thiện. Ngày ngay, các hệ thống động lực của T-80 và T-90 (Nga) ổn định được tầm hướng súng khi xe di chuyển tốc độ 70km/h-80km/h trên đường gồ ghề. Hệ thống ổn định nòng súng có máy đo con quay hồi chuyển và máy tính, máy chấp hành chạy điện+thủy lực. Hệ thống nạp đạn tự động thủy lực đóng góp vai trò lớn cho xe. Nó nâng tốc độ bắn và giảm thể tích dành cho người nạp đạn. Hệ thống nạp đạn tự động và bố trí băng đạn có vai trò lớn trong tăng cường giáp xe.

Người Nga dùng băng đạn tròn liều rời, điều này thuận lợi cho việc sắp xếp băng đạn tròn sau này. Kiểu băng đạn này làm giảm thể tích trong xe, nhưng cũng làm hơi giảm tốc độ của hệ nạp đạn tự động. Tốc độ bắn của xe tăng Nga 6-8 phát phút. Đạn liều rời với hệ thống nạp đạn có lập trình điện tử là phương hướng phát triển tiên tiến hiện nay. Lúc điện tử chưa phát triển nó hạn chế ứng dụng đạn APFSDS và nạp đạn rất chậm (xe IS-2 bắn 1 phát / 1 phút). Băng đạn tròn chứa được ít đạn nên còn số đạn nữa dưới thân xe, cần phải nạp vào băng trước khi bắn, người ta cũng thiết kế hệ thống nạp đạn vào băng này, trong băng sẵn sàng một số loại đạn có mục dích khác nhau. Một điểm hết sức lợi thế của đạn liều rời băng tròn nạp tự động là chiều dài liềuđạn nhỏ, tạo điều kiện làm ổ đỡ tháp pháo nhỏ, đây là chỗ yếu nhất khi nhìn ngang xe, cần phải che giấu. Các T-80, T-90 hầu như không lộ ổ này. Ucraina gặp khó khăn lớn khi cải tiến T-80 dùng đạn liều liền NATO. Xe T-95 thì tháp pháo chỉ còn là băng đạn của súng.

Xe tăng Leclerc (Pháp) bắn hết băng đạn gần 30 viên khi chạy 50km/h trong khoảng 4km đường gồ ghề. Tốc độ bắn xe này đến 10-12 phát phút. Một lợi thế của đạn liều liền là nạp đạn tự động cực nhanh.

Để tăng cường khả năng chống tăng, người ta thường cải tiến súng trên xe tăng, bắn cùng đạn cùng nòng, làm pháo kéo hay pháo tự hành chống tăng. Điều này rất tiết kiệm như khẩu D-44 85mm chỉ nặng có 1,6 tấn, trong khi T-34 85mm nặng 30 tấn. Hay khẩu ZiS-2 cùng dùng nòng 57mm CaL 71 như T-34 57mm, nhưng chỉ nặng có hơn một tấn, bắn tự động tốc độ 25 phát phút, trong khi xe T-34 57mm nặng 23 tấn. Tuy những vũ khí này chỉ có thể phục kích, phòng ngự xe tăng, nhưng có thể chế tạo một số lượng lớn nhanh chóng.

Quan sát, phát hiện, dẫn bắn.[sửa | sửa mã nguồn]

Sức tấn công của xe ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống quang-điện tử. Nó bao gồm quan sát quang học trực tiếp, quang học-điện tử (camera), hồng ngoại thụ động, hồng ngoại chủ dộng (có chiếu sáng hồng ngoại), laser chỉ thị, laser đo xa, đo tốc độ quang hoặc laser, đo tốc độ doppler radar hoặc quang. Dựa trên dữ liệu của các thiết bị quan sát trên là hệ thống máy tính, quyết định phần tử bắn quá tốc độ, vị trí, hướng... của địch-ta-đạn-môi trường, đảm bảo bắn trúng bằng các loại đạn, thậm chí dẫn đường cho đạn bắn từ vũ khí khác. Máy tính tạo thành hệ thống quan sát thông minh, nhận ra và bám mục tiêu bằng các đặc điểm nhiệt độ, chuyển động và tiên tiến nhất đang phát triển là độ chói, hình dáng. Máy tính cũng cho phép sử dụng hệ thống thông tin số ví dụ như định vị hoặc quan sát qua phương tiện của đồng đội. Gần đây, các xe tăng và diệt tăng Nga đã có hệ thống radar băng sóng mm đủ nhỏ đặt trên xe (ví dụ hệ thống bắn tên lửa Khrizantema), trong khi các hệ thống này của các nước khác còn rất lớn. Radar này tăng vọt khả năng phát hiện-bám mục tiêu, chiến đấu mọi thời tiết.

Phòng thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Giáp và kết cấu xe.[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:Ketoarmorlayoutnewtank.JPG

Chiến tranh Thế giới 2 đưa ra đặc điểm cơ bản của tăng: giáp dầy, nghiêng và ưu tiên phía trước. Xe lúc đó cũng thường trang bị thêm một súng máy đồng trục với đại bác chính và một súng phòng không. Tuy nhiên, chỉ đến gần đây, tầm quan sát của xe tăng mới tăng lên để sử dụng các vũ khí phụ đó hiệu quả hơn. Để giáp xe được dầy, cần làm thể tích trong xe nhỏ, xe T-34 rất bất tiện với tổ lái vì vậy. Xe thấp nhỏ cũng làm giảm kích thước mục tiêu khi địch ngắn bắn, giảm khả năng trúng đạn.

Ngày nay, giáp xe tăng là loại giáp liên hợp. Giáp bao gồm một lớp vỏ mềm dầy (tấm chắn trước của xe T-55 cải tiến gần 1 mét). Vỏ mềm gồm nhiều lớp mềm dầy nhưng tỷ khối thấp đặt giữa các lớp cứng tỷ khối lớn nhưng mỏng hơn. Sau các lớp này là giáp chính làm bằng hợp kim tốt nhiều lớp. Bên trong giáp chính là lớp vật liệu mềm kín nguyên tử lượng cao "3 phòng chống" (NBC-"nuclear biological chemical"-"sinh hóa phóng xạ"). Một số xe có lớp ngoài cùng là hộp gốm chịu nhiệt phân tán dòng khí nóng đạn lõm. Với giáp như vậy, đạn KE nghiêng đi khi đi qua các lớp liên hợp rồi gẫy khi gặp giáp chính. Đầu nổ lõm bị kích nổ ở xa giáp chính nên giảm sức xuyên.

Khả năng quan sát của tổ lái được tăng cường bởi thiết bị điện tử. Xe tăng hiện đại của Nga hoàn toàn không có người trong tháp pháo, tháp pháo hiện nay chỉ là súng chính và đạn dược. Tổ lái 4 chỗ ngồi (thường có 3 người ngồi) nằm giữa thân, thấp xuống. Toàn bộ việc quan sát và điều khiển được thực hiện qua hệ thống điện tử với máy tính hỗ trợ. Các hệ thống tự động này là mấu chốt sức mạnh của giáp xe: không gian trong xe rất nhỏ, xe thấp nhỏ, giảm diện tích mặt ngoài, tăng độ nghiêng và độ dầy của giáp trong khi không cần tăng khối lượng xe. Xe ngày nay có khối lượng như IS-3 hồi cuối thế chiến, nhưng nhỏ hơn nhiều và giáp trước có khả năng chống đỡ cao gấp 3-4 lần. Ví dụ, T-90 Nga có thể tích bên trong tháp pháo còn có 1,85 mét khối. Các xe tháp pháo tròn thấp kiểu Nga có khối lượng chiến đấu nhỏ (45 tấn) nên cơ động. Kỹ thuật phát triển làm kiểu xe này rất có tương lai. Vũ khí phụ (chống bộ binh, máy bay...) đặt ngoài giáp được điều khiển điện tử từ trong xe cộng với khả năng quan sát cho phép xe an toàn, độc lập trong điều kiện phức tạp.

Xe tăng thiết kế bố trí kiểu Leopard-2 xuất phát từ xe Tiger hồi Thế chiến 2]]. Xe tăng đặt buồng đạn chính sau tháp pháo, chỗ ngồi tổ chiến đấu cao so với thân xe. Diện tích ngoài xe lớn nhưng thể tích thân lớn, cho phép mang động cơ khỏe. Điều này cho phép xe có giáp rất dầy. Các xe này chậm chạp hơn loại xe Nga, nhưng mang được nhiều đạn hơn. Do diện tích giáp lớn nên nhiều chỗ giáp xe không tốt như hai bên, ổ đỡ tháp pháo và phía sau xe, diều này làm giảm khả năng sống sót trong những trận hỗn chiến phức tạp, nhất là có nhiều bộ binh tham gia trong địa hình rắc rối. Thuận lợi lớn của xe này là đa năng, làm được nhiều việc, do trọng tải lớn mang được nhiều vũ khí, khí tài, điều này trong nhiều trường hợp giảm nhiều số xe phải tham chiến trực tiếp.

Vai trò của vũ khí chính xác tầm xa.[sửa | sửa mã nguồn]

Trên kia có ý kiến xe tăng sợ máy bay là không đúng. Trong Thế chiến 2, máy bay rất ít khả năng diệt được xe tăng. Máy bay không trang bị được đại bác bắn đạn xuyên hạng nặng, còn tên lửa không điều khiển và bom có độ chính xác rất thấp. Ngày nay, khi máy bay được trang bị tên lửa chống tăng có điều khiển thì bay mới gây thương vong đáng kể được cho xe tăng. Do đó, xuất hiện các máy bay trực thăng vũ trang như AH-64 Apache hoặc KA-50, Mi-35. Máy bay phản lực chống tăng như A-10, SU-25. Tuy nhiên, lúc này, hệ thống điện tử của xe tăng cũng hoàn thiện để chống lại máy baytên lửa chống tăng có điều khiển. Nhưng ngày nay, xe tăng, máy bay hay bất cứ binh chủng nào cũng không còn là quyết định độc nhất của chiến trường nữa.

Tên lửa chống tăng có điều khiển mở ra một khả năng mới, hiện nay nó là thứ vũ khí đưa tầm bắn đạn diệt tăng hạng nặng của xe tăng và các xe cơ giới khác lên 4-5km. Đặc biệt, những tên lửa dùng cho bộ binh vác vai hoặc đặt trên giá nhẹ cũng bắn được nhiều km. Hiện tại, phổ biến sử dụng những tên lửa được điều khiển trực tiếp từ nơi bắn hoặc gián tiếp, qua con người hoặc chí ít phát hiện mục tiêu bằng con người. Nhưng đã xuất hiện một số tên lửa tự tìm mục tiêu ở Nga, Đức. Điều này cho phép các giàn pháo bắn tăng với tốc độ rất cao từ hàng chục km.

Tên lửa chống tăng có điều khiển được người Việt Nam vinh dự sử dụng lần đầu tiên trên thế giới. Đó là Quảng Trị, cuối năm 1972, đầu 1973. Người Việt Nam cũng thể hiện tên lửa chống tăng không điều khiểnvũ khí diệt nhiều xe tăng nhất sau thế chiến 2, buộc các cường quốc kinh tế-kỹ thuật phải thay đổi phương hướng thiết kế và sử dụng các loại xe bọc thép.

ERA, vỏ phản ứng nổ.[sửa | sửa mã nguồn]

ERA và các phương tiện chiến đấu khác trên T-90, cuối những năm 1990.

ERA là các liều nổ lõm xếp ngoài giáp, khi đạn bắn vào nó, sức nổ đẩy ra một luồng mang năng lượng cao. Các đầu đạn lõm 1 tầng gần như mất sức xuyên khi gặp ERA. Đạn KE bị đẩy nghiêng đi, do đó, ERA hiện đại như Contact-V của Nga đặt xa giáp để độ nghiêng thanh xuyên tăng lên, tăng khả năng đạn thanh xuyên gẫy phân tán năng lượng. ERA ngày nay tăng cường tính năng chống đạn HEAT và cả đạn APDS bằng phối hợp với giáp liên hợp và điểm hỏa điện tử. ERA đặt ngoài giáp liên hợp, luồng tấn công nào đi được qua ERA cũng đã bị lệch hướng, tiếp tục bị giáp liên hợp làm phân tán. ERA Nga không sử dụng luồng khí nữa mà bắn đi đạn là tấm kim loại chắc, đập vào luồng tấn công, đẩy luồng mạnh như APDS nghiêng di đến vài chục độ. ERA kết hợp này điểm hỏa điện tử, có giáp phụ che chắn.

Nhược diểm lớn nhất của ERA là khi một điểm nào đó trúng đạn APDS, mảnh văng có thể kích nổ ERA ngoài ý muốn. Trong chiến thuật, ERA gây khó khăn khi bố trí bộ binh đi cùng xe.

APS, hệ thống phòng thủ tích cực.[sửa | sửa mã nguồn]

APS là hệ thống phòng thủ tích cực. Đây là hệ thống phòng không cực nhỏ và nhậy. Nó dùng laser, hoặc hồng ngoại, radar phát hiện và tính toán đường đi của đạn bắn tới. Sau đó hệ thống này bắn hỏng đầu đạn trước khi chạm xe tăng. APS chủ yếu dùng để chống tên lửa chống tăng, có tốc độ thấp. Tuy nhiên, thế hệ Arena-E bắn chặn tên lửa 700met/s, nhịp độ 0,2s-0,4s. Các APS hiẹn đại hạn chế ảnh hưởng quân ta quanh xe.

APS là một trong những đỉnh cao của kỹ thuật xe tăng. Chỉ rất ít nước có những thành công hướng này.

Tàng hình, gây nhiễu.[sửa | sửa mã nguồn]

Nòng xe được lắp gốm chống phát xạ hồng ngoại cùng hệ thống tản nhiệt động cơ, giảm khả năng địch phát hiện-bám bằng hồng ngoại chói, hồng ngoại đo nhiệt độ, hồng ngoại định tâm. Để chống lại các tên lửa chống tăng có điều khiển ATGM xe tăng ngày nay có "Hệ thống gây nhiễu" bao gồm các súng khói, máy gây nhiễu hồng ngoại, máy gây nhiễu laser. Hệ thống Shtora trang bị trên các xe T-80 phát hiện và phân tích tên lửa bắn tới, phát hiện tín hiệu dẫn bắn laser. Khói trùm kín xe, mục tiêu giả laserhồng ngoại được các đèn chiếu tạo ra cùng pháo sáng cực mạnh ngay lập tức gâu nhiễu các phương tiện dẫn bắn cùng mắt xạ thủ đối phương. Xe tăng thử nghiệm T-95 có vỏ tàng hình bằng công nghệ hấp thụ đối phó với việc sử dụng radar trong quan sát, dẫn bắn.

Tàng hình, gây nhiễu dược thiết kế như một thành phần của hệ thống phòng thủ tích cực APS. Súng khói tạo ra khói bằng phun khói, bắn đạn chứa thuốc tạo khói (cách này ngay lập tức tạo dược màn khói rộng bằng giàn súng nhiều nòng). Một số xe đốt nhiên liệu tạo ra khói, màn khói tồn tại lâu.

EMPS, Chống mìn.[sửa | sửa mã nguồn]

Mìn diệt tăng được kích nổ bằng động lực (gạt, đè, chấn động) và điện từ. Để chống mìn động lực, xe tăng trang bị các "cày mìn sâu" là các lưỡi cày và bánh xe ép phía trước. Để chống mìn điện từ, tăng sử dụng hệ thống bảo vệ điện từ ElectroMagnetic Protection System (EMPS).

Hóa học.[sửa | sửa mã nguồn]

Những xe tăng hiện đại như Leopard 2A5, T-90 đều cơ bộ lọc không khí và điều hòa nhiệt độ để chiến đấu trong điều kiện cuộc chiến tranh hóa học. Tuy nhiên, hiện nay chỉ xe T-80, T-90 đầy dủ các thiết bị diều khiển từ xa, hệ thống cảm biến, tự động chiến đấu để đảm bảo trong môi trường độc hại (toàn bộ công tác tổ lái nằm trong giáp).

Hệ thống dập lửa, bảo vệ tổ lái.[sửa | sửa mã nguồn]

Trước dây, Mekava và M1A1 sử dụng hệ thống bảo vệ tổ lái hữu hiệu, giảm thương vong khi xe trúng đạn thủng giáp. Hệ thống gồm một giáp phụ bên trong giáp chính, bao bọc tổ lái. Hệ thống dập lửa tự động mạnh và nhậy làm việc giữa giáp vỏ tổ lái và giáp chính. Hệ thống dập được những đám cháy nhỏ trong xe, giảm tốc độ cháy nổ xe khi xe bị phá hủy. Hiện tại, T-80T-90 cũng được trang hệ thống bảo vệ tổ lái này. Các xe T=80, T-90 tổ lái ngồi cụm gần nhau nên dễ thực hiện vỏ bảo vệ. Trong cuộc chiến tranh kéo dài, hệ thống này tỏ ra rất có giá trị, nó bảo toàn những chiến sĩ kinh qua chiến đấu giàu kinh nghiệm.

Di chuyển dưới nước.[sửa | sửa mã nguồn]

Không xe tăng MBT nào có thể tự nổi tên mặt nước. Các xe gàn giống xe tăng nhưng có thẻ nôit bơi lội được gọi là "xe tăng lội nước", trước đây còn gọi là "tăng bơi", ví dụ xe "PT-76". Các MBT vượt sông bằng cách lặn, "thở" qua nòng hoặc một ống thở lắp thêm. Xe Leopard 2A5 dùng một ống thở rộng, chụp vào cửa ra phía trên trưởng xe, nhờ đó cả tổ lái thoát hiểm được qua ống thở. T-80T-90 dùng ống nhỏ, không kiêm chức năng thoát hiểm tổ lái, hai xe này ở độ sâu thấp (ngập tháp pháo 1 mét) không cần lắp ống thở, dùng nòng.

Hệ động lực ngày nay[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ động lực được hoàn thiện thời những năn 1960, nay vẫn được chau chuốt.

Giảm xóc treo trên từng bánh xe đảm bảo thân xe chạy êm tốc độ cao trên 50km/h điều kiện không có đường xá của chiến trường. Hệ thống ổn định điện tử đảm bảo ngắm bắn chính xác trong điều kiện di chuyển đó. Các thiết bị điện tử đặc biệt như đèn laser có riêng hệ ổn định đảm bảo chính xác. T-80 mỗi bánh xe có hai tầng giảm chấn thủy lực lồng nhau. Xu hướng giảm chấn chủ động đang được phát triển.

Đến những năm 1980, nhiều nước chuyển sang dùng động cơ turbine cho công suất cao. Tuy nhiên, gần đây ít những trận đấu tăng, mà chủ yếu xe tăng dùng chống du kích. Động cơ turbine khi làm việc công suất thấp rất tốn nhiên liệu, nên các động cơ diesel vẫn là động cơ ưa chuộng, dùng được nhiều loại nhiên liệu trên một động cơ. Ngày nay, nhiều xe tăng đã áp dụng động cơ turbo truyền động điều khiển được và bơm nhiên liệu điều khiển được. Ở loại động cơ này, năng lượng thừa từ xy-lanh tiếp tục đẩy turbine chạy, turbine này được dùng nén khí đầu vào. Năng lượng truyền giữa turbine, máy nén đầu vào, trục chính và lượng nhiên liệu được điều khiển điện tử. Loại động cơ này có kích thước nhỏ mà vẫn chạy ưu việt trong được dải công suất rộng.

Xe tăng T-80 được thiết kế để chiếm ưu thế trong các trận đấu tăng kiểu Prokhorovka. Xe có hệ thống nạp đạn tự động băng tròn, làm giảm thể tích trong và chiều cao. Diện tích mục tiêu phía trước xe nhỏ, do đó, giáp xe rất dầy mà xe nhẹ. Xe T-80 ban đầu nặng 42,5 tấn, động cơ turbine 1000HP. Xe T-80U có động cơ turbine 1250HP, xe nặng gần 46 tấn. Mỗi giảm xóc gồm hai ống thủy lực lồng nhau có van giảm tiết lưu một chiều. Xe được gọi là xe tăng bay, xe cơ động nhất trong các tăng hiện đại, với tốc độ chiến đấu 70km/h. Thân xe này trở thành kiểu mẫu cho các tăng Nga sau này.

Biên chế[sửa | sửa mã nguồn]

Biên chế của xe tăng ngày nay gồm nhóm chiến đấu chính, lái xe và cảnh giới. Trước đây nhóm chiến đấu chính gồm trưởng xe, xạ thủ, nạp đạn. Ngoài ra, trước đây còn thêm nhân viên thông tin (kiêm cảnh giới, tổng 5 người trên xe). Ngày nay, với các xe tăng hiện đại hóa cao, toàn bộ hoạt động đối kháng-thông tin do trưởng xe làm, xe còn 3 người. Xe tăng hiện đại Nga dành một chỗ cho sỹ quan làm nhiệm vụ riêng, như chỉ huy đội xe hay nhân viên kỹ thuật sử dụng khí tài trang bị thêm. Xe T-80, T-90 có 3 nhân vien, nhóm chiến đấu chính do trưởng xe kiêm nhiệm. Xe M1 có 4 nhân viên vì nạp đạn thủ công, thiếu cảnh giới (lái xe, trưởng xe, nạp đạn, xạ thủ).

Ngày nay, vai trò của xe tăng được đặt nhiều dấu hỏi, quan trọng nhất do xuất hiện của tên lửa có điều khiển. Trước đây, chỉ đại bác hạng nặng nòng dài mới diệt được tăng. Nhưng này nay, tên lửa có điều khiển có thể đặt trên máy bay, trong trang bị của bộ binh, vác vai cá nhân. Máy bay thì cơ động hơn, còn bộ binh thì phục kích tốt hơn. Tên lửa có điều khiển gần đây còn có thể bắn từ đại bác tầm xa hay giàn phóng nhiều nòng tầm xa. Trong cuộc chiến Iraq, xe tăng vẫn là lực lượng xung kích chính. Gần đây có hiện tượng là xung đột Israel-Hezzbola năm 2006, Hezzbola không có vũ khí hiện đại tên lửa có điều khiển, nhưng họ sử dụng các tên lửa không điều khiển sức xuyên mạnh hiện đại. Israel thiệt hại số lượng lớn xe tăng và thực tế, đã thất bại trong xung đột này. Rõ ràng, việc khống chế chiến trường ngày nay phức tạp hơn bội phần, nhưng xe tăng vẫn là lực lượng quyết định thăng bại của cuộc chiến. Người ta không đổi xe tăng lấy vũ khí khác, mà chỉ hoàn thiện các phương pháp chiến đấu của nó.

Các dòng xe tăng[sửa | sửa mã nguồn]

NgaĐức là hai nước đã đặt ra yêu cầu có xe tăng đúng nghĩa sau chiến tranh Tây Ban Nha. Hai nước đã sản xuất một số lượng lớn xe tăng, thử nghiệm các tính năng của chúng và sử dụng xe tăng với quy mô khổng lồ. Họ có quá nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế, sản xuất, sử dụng cấp chiến sỹ và cấp tướng lĩnh, chiến lược phát triển xe tăng và các vũ khí lục quân khác. Hai nước cũng có truyền thống quân sự huy hoàng, lâu đời với chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc toàn dân. Nòng cốt nhân sự Quân đội đều là hệ thống sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp được đào tạo kỹ càng và xã hội coi trọng. Ngày nay, hai nước này vẫn hoàn thiện những xe tăng họ đã chế tạo hồi Thế chiến 2. Đây là hai dòng tăng tốt nhất thế giới hiện nay. Các dòng xe tăng khác đều có cốt lõi là hai dòng xe này.

Xe tăng Nga.[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu Thế chiến 2, người Nga có một số lượng ít ỏi xe tăng hạng trung T-34 và hạng nặng KV.

T-34, tăng hạng trung trong chiến tranh.[sửa | sửa mã nguồn]

Khi chưa có chiến tranh, nhiều thế lực đã kìm hãm sự phát triển của T-34, một ví dụ cụ thể lại chính là đốc công nhà máy Kharcov số 183 (tên trước đây là Nhà máy động cơ hơi nước Komintern), nơi một nhóm kỹ sư đã vẽ bản vẽ A-20 năm 1937, tiền thân của xe tăng danh tiếng này. Một chuyện hài hước là, sau đó Stalin đốc thúc nghiên cứu thử nghiệm cải tiến mẫu xe đó với sức ép lớn, bắt buộc các mẫu thử chạy 3000km rồi trình diễn trước một hội đồng quốc gia ngay trong sân điện Kremlin. Chỉ trong năm 1939, xe A-34 đã định hình với 3 cuộc thử nghiệm quan trọng nối tiếp nhau ngay trong năm đó: A-20, A-32, A-34. Viên đốc công-lúc này là người hăng hái nhất phát triển A-34, chỉ huy tổ 3 chiếc xe đi trong tuyết đông về Maxcơva cho đủ số 3000km, ốm và mất sau đó. A-34 được cải tiến chút nữa và đưa vào sản xuất với tên trong biên chế là T-34.

Năm 1940, đã có một kế họach sản xuất đầy đủ 600 xe bởi hai Nhà máy Kharcov số 183 (500 xe) Nhà máy máy kéo Stalingrrad (100 xe), nhưng chương trình dừng lại một lần nữa (lý do: thiết kế thêm tháp chỉ huy). Khi chiến tranh xảy ra, chỉ có 940 thân xe được đóng và chỉ một phần trong số đó chạy được, thật đáng tiếc.

Xe có sức cơ động tốt, giáp nghiêng, trội hơn nhiều Panzer-4. Việc sản xuất dễ dàng nhanh chóng được chứng tỏ sau đó trong thực tế. Xe vẫn còn mang nhiều nhược điểm, ví dụ lớn nhất là chưa có súng thích hợp cho nó, đạn còn rất hiếm và trình độ sử dụng tồi. Xe thiếu vòng đệm cao su nên rất ồn, chỗ ngồi trong xe bất tiện. Hệ thống ổn định súng chưa có nên chưa bắn được khi đang chạy. Trong chiến tranh, xuất hiện nhiều phiên bản T-34 cải tiến khác nhau với các công nghệ khác nhau: đúc, hàn, dập... tôi trước gia công, tôi sau gia công, dùng động cơ diesel hay động cơ xăng... Xe mang các cỡ súng 57mm, 76mm rồi 85mm nòng dài. Sau chiến tranh, dòng này được cải tiến đến T-55. Xe T-34 nặng 30,5 tấn. Xe T-55 nặng 36 tấn.

T-34 ngày nay được mọi người coi là xe tăng thành công nhất của thế kỷ 20.

Tăng hạng nặng trong chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]

KV (Klim Voroshilov) được thiết kế chế tạo ở Leningrad, Nhà máy Kirovsky. Đây là loại tăng hạng nặng 45 tấn. Lịch sử thiết kế và sử dụng xe này gắn liền với những thay đổi về quan điểm với xe tăng. Ban đầu (cuối năm 1938), xe được thiết kế như ấn bản tiếp theo xe SMKT-100, loại xe tăng hạng nặng hai tháp pháo và tham khảo xe nước ngoài, trong đó có xe S-2a Tiệp Khắc (một phiên bản giống C-2 Pháp). Ấn bản xe KV-1 đầu tiên có 2 đại bác đồng trục trên 1 tháp pháo: 45mm và 76mm. Sau đó, súng đồng trục chỉ còn là khẩu súng máy nhỏ, dồn sức mạnh cho 1 súng chính. Các ấn bản được chế tạo và thử nghiệm sau đó nặng từ 50 tấn đến trên 110 tấn, trang bị các loại đại bác nòng dài và nòng ngắn 76mm, 85mm, 90mm, 107mm, 122mm, 152mm, phun lửa và bắn tên lửa, có loại không tháp pháo. Hai loại tham chiến nhiều là KV-1 trang bị 1 đại bác nòng dài 76mm bắn đạn xuyên, tác dụng như một tăng hiện đại nhưng do kết cấu xe cổ nên rất nặng, một số rất ít xe 85mm (nặng 63 tấn) có tham chiến. Xe KV-2 mang đại bác nòng ngắn 152mm, tác dụng như pháo tấn công ngày nay (nó không bắn đạn xuyên nhưng do đạn trái phá nặng, nếu trúng thổi bay tháo pháo xe đối phương hoặc làm vỡ tan tháp pháo làm bằng thép giòn, khả năng bắn trúng kém). Giai đoạn bắt đầu chiến tranh, xe KV là vua tăng, tuy rằng vận động khó khăn, nhưng giáp rất tốt. Đến trước khi kết thúc trận đánh Prokhorovka, loại xe này được hạn chế sản xuất do quá tốn thép. Trận đánh này, người Đức đưa vào sử dụng các xe tăng mới, trong đó có Xe Tăng Hổ Tiger và Pháo tấn công Voi Elefant. Điểu này làm T-34 tổn hại lớn. Thực chất, trước trận đánh Prokhorovka, cánh Nam chiến dịch Kursk do Nguyên Soái Von Manstein cầm quân đã chọc thủng tuyến tiền tiêu quân Nga. Tiger 1 bắn được mặt trước T-34 hồi đó ở 1500met, trong khi đối lại, chỉ là 100mét. Prokhorovka thực chất đạt được thắng lợi do tài cầm quân của các tướng Nga, họ đưa T-34 vào sát phía sau Tiger. Trận đánh đã gia tăng sức ép sản xuất tăng hạng nặng, KV được đổi tên là IS (Iosep Stalin), với các cải tiến tăng cường giáp nghiêng, cơ động như T-34. Prokhorovka là trận thất bại của tăng hạng nặng, nhưng lại khẳng định vai trò thống trị của tăng hạng nặng: người ta cần những tăng mạnh nhất có thể làm được.

Cuối chiến tranh, IS-2 đã được sản xuất số lượng khá lớn, IS-3 đã xuất hiện (13 ngàn chiếc IS và xe có thân IS đã dược chế tạo trong chiến tranh). Đặc điểm của IS-2 là tháp pháo thể tích trong rất nhỏ, kết cấu giáp dầy và nghiêng vững chắc, diện tích mục tiêu khi địch bắn nhỏ, khiên (phần giáp che ngõng súng) thấp và diện tích nhỏ, che chắn ổ đỡ tháp pháo kín toàn bộ bằng giáp dầy, súng có sức mạnh lớn, nhưng súng bắn đạn liều rời và nạp đạn thủ công nên tốc độ bắn chậm (một phát một phút), lượng đạn ít. Đạn liều rời là một giải pháp giảm thể tích tháp pháo, sau này sẽ chứng tỏ nhược điểm rất khó cải tiến đạn thanh xuyên dưới cỡ có guốc sabot. Trong trận đánh chiếm bàn đạp bên kia sông Vistuyn, tháng 8-1944, JS-2 đã chiến thắng Tiger 2 (King Tiger, Hổ Vua). Trận đánh có có biệt danh "Vua chiến", vì lúc đó IS-2 là xe tăng tốt nhất của quân Nga.

Những dòng xe tăng hạng nặng thử nghiệm Nga[sửa | sửa mã nguồn]

IS-2IS-3 sau này trở thành hai dòng tăng hạng nặng có loại được trang bị nhưng tính thử nghiệm lớn hơn:

JS-5, JS-6, JS-8, JS-9, JS-10 (sau này đổi tên là T-10): tháp pháo ngắn, đại bác 122mm.

JS-4, JS-7, Object-277, Object-279, Object-770: tháp pháo dài, đại bác 130mm.

Chúng có rất nhiều cải tiến về giáp-dáng xe, hệ động lực, hệ quan sát, điện tử, 3 phòng chống, đạn dược... là mũi nhọn kỹ thuật phát triển các xe tăng sau Thế Chiến 2. Trên cơ sở các kết quả thử nghiệm đạt được, người ta hoàn thiện MBT.

MBT[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng T-62T-64 là hai chiếc mở đầu cho hai dòng tăng MBT Nga. Chúng cơ khối lượng gần ngang với IS, tháp pháo ngắn tròn, thừa kế những đặc điểm thân xe thấp và giáp nghiêng. Thực chất, do cơ sở hạ tầng hoàn thiện và công nghệ mới cho hệ động lực tin cậy, nên các xe hạng nặng sử dụng thuận tiện hơn, nên được chế tạo nhiều. Trong khi đó, các xe hạng trung như T-55 tỏ ra quá yếu, việc bỏ tăng hạng trung đi dẫn đến chỉ còn một dòng tăng sản xuất lớn, nên có tên MBT. Hệ thống nạp đạn tự động kiểu băng tròn cho phép giảm tối thiểu thể tích trong tháp pháo và chiều cao xe. Việc nạp đạn tự động khắc phục nhược điểm bắn rất chậm của IS-2 và T trở thành một trong những loại tăng bắn nhanh nhất, nhưng nhược điểm khó cải thiện đạn guốc thì chỉ đến khi các hệ thống điện tử hoàn thiện mới đạt được. Tuy nhiên, do kết cấu vững, các xe MBT Nga tuy nhẹ nhưng lại thường mang được súng to, giáp dầy hơn phương Tây. T-64 tiếp theo là T-72, T-90, T-2000 còn T-62 nối tiếp bởi T-80, T-95 với những đặc điểm hơi khác nhau (có lẽ xe T-95 không được sản xuất, trang bị, chỉ dừng ở thử nghiệm. Ucraina sản xuất một vài mẫu xe T-94, nhưng thiếu hệ thống điện tử và dùng thân xe khác, gần giống T-80). Dòng T-62 có khả năng đấu tăng mạnh mẽ còn T-64 có khả năng chiến đấu trong điều kiện phức tạp hơn. Các xe T-80T-90 ngày nay mang súng 125mm, khối lượng gần 50 tấn. Các kiểu xe T-95T-2000 có kết cấu tháp pháo hoàn toàn tự động hóa không người, rất nhỏ và thấp, hiện vẫn mang súng 125mm nhưng mang được súng 135mm hay 152mm cal 60.

Xe T-80 cuối những năm 1990

Sau Thế Chiến 2, trong nhiều cuộc chiến tranh và xung đột lớn trên thế giới, xe tăng Nga vượt các xe cùng thời khác. Các cuộc chiến tranh xe tăng Nga tham chiến nhiều là Chiến tranh Triều Tiên 1949-1953, Chiến tranh Trung Đông 1967 và 1973, Chiến tranh Apganistan, Xung đột Iraq-Iran, Chiến tranh Việt Nam-Mỹ, Chiến tranh Chechnya 1 và 2, Chiến tranh Iraq 1 và 2. Chiến tranh Chechnya 1 thể hiện xe tăng Nga thiếu tiền, chậm hiện đại hóa và trang bị rộng các APS tiên tiến, dẫn đến một vài tăng tiên tiến như T-80 bị bắn cháy.

Các hệ thống điện tử trên xe tăng Nga rất phức tạp. Các xe tăng hiện đại Nga hiện nay và các thiết bị Nga bán cải tiến xe cổ của họ cho phép kíp xe hoàn toàn làm việc qua màn hình máy tính, điều khiển hoàn toàn tự động các thiết bị trong và ngoài giáp. Các phương tiện bảo vệ Drozd, Contact-V, Shtora, Arena, TShU, radar, tên lửa có điều khiển ATGM luôn là đỉnh cao kỹ thuật.

Do thiếu tiền, việc trang bị phương tiện hiện đại của Nga rất chậm.

Xe tăng Đức[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng Đức đầu chiến tranh đuổi quân Nga lùi thế nào thì chúng ta đã biết. Do sớm nắm được những bài học đối kháng ở Tây Ban Nha, người Đức chế tạo xe tăng hạng trung nhanh hơn người Nga rất nhiều. Các xe tăng hạng trung đóng vai trò quyết định chiến trường đầu chiến tranh là Panzer-IIIPanzer-IV] đã nghiền nát châu Âu còn chưa hiểu xe tăng là gì (ví dụ, Pháp lấy C2 và AMC-35 làm xe tăng chủ lực). So với tăng Nga, xe Đức có nhiều tiến bộ kỹ thuật hơn. Hệ động lực của họ tin cậy hơn, làm việc êm. Nếu cùng cỡ súng thì súng Đức bắn đạn xuyên tốt hơn do kỹ thuật điều khiển tốc độ cháy thuốc phóng ưu việt. Đồng thời, súng Đức dùng cho xe tăng cũng cơ tỷ lệ chiều dài/cỡ nòng (cal) lớn hơn (Tiger 2 dùng 88mm cal 70). Đầu chiến tranh, do chuẩn bị tốt nên Tướng và Quân Đức dùng xe tăng tốt hơn nhiều, được hậu cần đầy đủ, trong khi nhiều lính Nga ra trận chưa biết sử dụng súng và rất thiếu đạn. Ngay trước chiến dịch Kursk, Von Mastein đã dậy cho người Nga biết xe tăng mất sức chiến đấu nhanh chóng thế nào khi bị cắt hậu cần, tạo ra mấu lồi Kursk. Một đặc điểm vượt trội của xe tăng Đức là ống ngắm quang học của họ. Hầu như các xe Đức đều trang bị điện đài, trong khi đó đến năm 1943, còn ít T-34 có điện đài. Người Đức có thế mạnh về hợp kim, điều đó góp phần cải thiện lớn giáp xe, trong khi đó, người Nga có tiến bộ lắm thì dùng thép giầu mangan trong chiến tranh.

Tăng hạng nặng Đức.[sửa | sửa mã nguồn]

Người Nga nhanh chóng tăng số lượng sản xuất xe T-34, hoàn thiện nó với giáp dầy súng to hơn. Điều này làm đầu năm 1943, chất lượng xe tăng Nga vượt trội. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ sản xuất Nga suy giảm, các nhà máy bị phá hủy và đang trên đường sơ tán.

Người Đức đã phát triển kiểu xe nổi tiếng Tiger-1 (tháng 3 năm 1943, còn gọi là Panzer V, 57 tấn, mang pháo 88mm CaL 56) và Tiger-2(bắt đầu sản xuất trong năm 1943, nhưng chỉ được 3 chiếc năm đó, có thể coi lúc bắt đầu sản xuất là năm 1944, còn gọi là Panzer VI, King Tiger, 70 tấn, mang đại bác 88mm CaL 71). Xe Tiger có tháp pháo dài, buồng đạn phía sau, thành đứng và tháp pháo cao, chiều dầy giáp lớn bù cho thành đứng. Xe trang bị nhiều đạn, đạn liều liền nên các hãng sản xuất đạn dễ dàng cải tiến đạn xuyên. Thực chất, người Đức đã sử dụng đạn lõi mật độ cao trong trận đánh Maxcơva. Pháo Tiger 2 bắn đạn xuyên có khả năng xuyên giáp tốt như 122mm của IS-2, trong khi đó đường đạn và tốc độ bắn của IS-2 kém hơn nhiều, số lượng đạn IS-2 chỉ bằng 1/3 của Tiger (28/84 đạn). Có thể khi đấu tăng thuần túy, IS-2 thắng. Nhưng trong một trận đánh binh chủng hợp thành phức tạp, IS-2 cần rất nhiều xe phụ trợ như pháo tấn công chống công sự và các T-34 bắn các xe tăng yếu hơn của đối phương, trong khi đó chỉ Tiger làm được tất cả các chức năng đó. Điều này đóng vai trò quan trọng với Đức nửa sau cuộc chiến, khi nguồn nguyên liệu và khả năng sản xuất giảm, không thể sản xuất một số lượng lớn các loại xe nữa.

Điều kiện chế tạo giảm sút kéo theo sức chiến đấu của Tiger giảm về chất lượng. Đạn xuyên lõi mật độ cao rất ít do mất nguồn cung vonphram đường biển. Hợp kim crom, niken càng ngày càng thiếu, cuối chiến tranh, người Đức phải dùng thép carbon cao-niken dẫn đến giáp rất giòn, dễ bị đạn đại bác tấn công đập vỡ vụn. Đặc biệt, King Tiger sau này có hệ động lực rất hay hỏng hóc. Ngoại trừ những khó khăn khách quan đó, King Tiger là xe tăng xuất sắc nhất hồi đó.

King Tiger (Panzer VI, 70 tấn) và IS-2 (gần 50 tấn) chứng tỏ trần kỹ thuật, điều kiện hạ tầng ngày đó đã đạt, các xe nặng hơn phải chờ đến sau này mới hợp. IS-3 có tham gia duyệt binh mừng chiến thắng ở Đức, tham chiến một số trận đánh ở Viễn Đông, nhưng gặp nhiều khó khăn. Cũng vì lý do đó, các xe tăng hạng nặng sau của Đức không vượt qua thời kỳ thiết kế. Panzer VII Löwe (Lion, Sư tử) có hai phiên bản 76 tấn và 90 tấn, pháo 100mm CaL 70, không được chế tạo mẫu thử nào. Panzer VIII Maus (Chuột) nặng 188 tấn, giáp trước gần dựng đứng dầy 240mm, mang pháo 128mm CaL 50, chỉ chế tạo được một mẫu. Ngoài ra, đã có những bản vẽ của Panzer IX và X. King TigerIS-2 cũng chứng tỏ xe tăng hạng nặng cơ động là bà chúa của lục quân. Hai xe này về sau trở thành thủy tổ của hai dòng MBT hiện đại ngày nay.

Trong chiến tranh cũng có những kế hoạch sản xuất xe tăng cực lớn Đức, như P. 1000 RatteP. 1500 Monster. P. 1000 Ratte mang hai đại bác chính 280mm, nặng 1800 tấn, giáp 150mm-360 mm. Động cơ có hai phương án. Phương án đầu dùng 8 động cơ Daimler-Benz MB501 20-cylinder, mỗi cái 2000 HP. Phương án tiếp dùng 2 động cơ tàu thủy MAN V12Z32/44 24-cylinder, mỗi động cơ 8500HP. Xe có 6 xích rộng 1,2 mét. Đến tháng 12 năm 1942, xe P. 1500 Monster xuất hiện trên bản vẽ. Xe mang 1 đại bác chính 800mm Dora, 4 động cơ MAN M9v 40/46 tổng cộng 9000HP công suất (động cơ của tầu ngầm), nặng 2500 tấn, số nhân viên trên 100 người.

Các nước khác như Anh, Pháp, Mỹ cũng có tăng hạng nặng của họ trong thế chiến, nhưng số lượng sản xuất và chất lượng không đáng kể.

Người Đức lấy lại vị trí, MBT Đức hiện đại.[sửa | sửa mã nguồn]

Các hậu duệ của Tiger là Leopard (Báo Gấm). Leopard-1 bắt đầu năm 1965, pháo 105mm mẫu L7 hoặc L-11 nòng xoắn Anh, 45 tấn. Người Đức liên minh với người Pháp chế tạo xe này. Leopard-2(62 tấn) bắt đầu trang bị năm 1979 mang pháo 120mm nòng trơn của hãng pháo Đức danh tiếng lâu đời Rheinmetall. Ban đầu dùng CaL 44, sau đó dùng CaL 55(KWS I, KWS II). Loại pháo Đức này nhanh chóng trở thành pháo tiêu chuẩn của tăng phương Tây. Người Mỹ gọi nó là XM-256, pháo của M1A1M1A2 hiện nay, xe tăng Anh, Pháp, Israel và nhiều nước khác cũng dùng KWS. Trong khi người Nga phát triển T-95, người Đức cũng đưa ra phương án Leoparrd-3 mang pháo KWS III Rheinmetall cải tiến tính ổn định, tăng được cỡ nòng đến 140mm (người Mỹ gọi là XM-291, phiên bản súng dùng để hiện đại hóa M1A2). Leopard cũng có hình dáng giống Tiger, một chút cải tiến hình dáng để tăng cường độ nghiêng giáp, đặc biệt là mặt trước và bổ sung giáp hiện đại như các lớp liên hợp, ERA. Người Đức hiện nay nắm nòng cốt kỹ thuật tăng phương Tây.

Vì những hạn chế chính trị sau Thế Chiến 2, xe tăng Đức ít được tham chiến. Nhưng các kỹ thuật tăng Đức có mặt khắp nơi. Trong các cuộc chiến tranh Iraq, Trung Đông đến khi các kỹ thuật tăng Đức phổ biến ở phương Tây, thì tăng phương Tây mới có được ưu thế.

Xe tăng Mỹ.[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng thử nghiệm MBT-70.

Xe tăng Mỹ không được coi là mạnh mẽ lắm, và khá bảo thủ. Có thể thấy, xe M-48 của họ dùng mũi đầu nòng kiểu chữ T cổ và nguy hiểm (mũi này rất hay giết quân ta, một tướng Nga sút chết khi bắn thử nghiệm), trong khi đó trong thế chiến, các xe tăng khác đã dùng mũi đầu nòng kiểu Đức. Trong chiến tranh Việt Nam, T-54 hạng trung 36 tấn cổ lỗ tỏ rõ ưu việt trước M-48 (48 tấn) và M-60 (52 tấn). Sự ưu việt của T-54, T-55 thể hiện trên nhiều khía cạnh. Nhiều lúc, xe T bị bắn trúng nhiều phát không sao, chỉ cần trả lời 1 phát là M vỡ tan. Sau kiểu M-60, Mỹ dự định dùng xe tăng MBT-70 do Đức thiết kế, nhưng MBT-70 đưa một bước tiến bộ kỹ thuật lớn. Nhìn chung, cấu trúc MBT-70 gần giống như các xe tăng hạng nặng tháp pháo dài của Liên Xô. Đạn chứa sau tháp pháo, nhóm chiến đấu chính ngồi ở phần trước tháp pháo, bên trong ổ đỡ và thụt xuống thân xe. Cấu trúc này làm giảm chiều cao, dễ dàng tăng cường giáp trước. MBT-70 không được đưa vào trang bị do giá quá cao. Người Mỹ lại hợp tác với người Đức đưa vào trang bị M1A1M1A2, bố trí không khác gì nhiều Leopard-2. Nhìn chung, xe này kích thước lớn (63 tấn rỗng, 70 tấn ra trận, cao 2,43met), súng bắn rất chậm do nạp đạn thủ công (4/6 phát phút). Kết cấu giáp dựng đứng kể cả mặt trước tháp pháo, ổ đỡ tháp pháo hai sườn rất lớn và giáp sau mỏng. Xe cũng chậm trễ trang bị các phương tiện phòng thủ tiên tiến như chống đạn lõm, chống tên lửa và dùng đạn ATGM... Ví dụ, xe M1A1 khi tham chiến ở Iraq không hề có ERA hay APS như mong đợi, xe M1A2 sau đó có mặt ở Trung Đông cũng vậy, chỉ có ERA làm việc phía sau không hề có APS (hặc làm việc quá tồi nên không tác dụng). Theo như các thông báo thì M1A2ERA bao bọc sau tháp pháo và APS sử dụng hồng ngoại phía trước. Kết cấu này về lý thuyết đã là cổ, không tạo thành giáp liên hợp nhiều lớp nghiêng, cũng không đánh chặn hiệu quả. Tuy vậy, hình như ngay cả những tính năng chống đạn lõm hạn chế đó cũng không đạt yêu cầu.

Tuy đối kháng kém nhưng xe tăng M1 Mỹ có lớp bảo vệ người trong tháp pháo tách biệt, hệ thống chống cháy. Điều này làm giảm thiệt hại tổ lái khi trúng đạn vào tháp pháo. Vấn đề cải tiến xe tămg Mỹ gặp nhiều khó khăn. Một phần do phải nhập khảu kỹ thuật, một phần do kết cấu xe rất khó thay dổi. Cùng xuất phát từ Leopard-2 nhưng ngày nay Leopard-2A6 đã rất khác biệt M1A2.

Xe tăng Israel[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng Israel Mekava IV Sử dụng tháp pháo cao thành đứng hai bên nhưng rất nghiêng trước và hơi nghiêng sau tháp pháo. Thực chất đây là xe Leoparrd-2 có chút cải tiến. Xe cũng được trang bị giáp liên hợp hiện đại, các ERA tốt, cũng có APS tuy hạn chế. Xe có khối lượng lớn (70 tấn), kích thước lớn, hình dáng không lợi và cao (2,66 mét với phần trên cao rất rộng, phần trên cao là phần dễ trúng đạn) khả năng di chuyển tốt. Điều đó cho thấy họ thiết kế xe này để đối kháng với xe tăng chủ lực đối phương trước mặt. Khả năng quan sát rất kém, thành hai bên và sau lưng đứng hạn chế khả năng chống lại điều kiện tác chiến phức tạp như bộ binh ở các mặt đó. APS sử dụng radar băng sóng 7cm và súng quay bắn chặn tên lửa, đây là giải pháp phản ứng chậm, yêu cầu công nghệ thấp và hiệu quả kém. Trong cuộc xung đột tháng 6-2006, xe thể hiện yếu kém trước các tên lửa chống tăng không điều khiển RPG, làm cuộc chiến này thất bại.

Xe tăng các nước khác[sửa | sửa mã nguồn]

Người PhápAnh cũng có những xe tăng riêng của họ, thừa hưởng nhiều kỹ thuật Đức. Xe Leclerc (Pháp) trang bị hệ thống nạp đạn tự động hiện nay có tốc độ bắn cao nhất trong các MBT (10-12 phát phút). Ngoài ra, các nước Nam Phi, Ấn Độ, Brazin, Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ cũng có xe tăng riêng của họ thiết kế ngoài những xe đóng theo mẫu các nước tiên tiến về xe tăng khác. Trung Quốc đưa ra kiểu Type-98 về cơ bản giống Leopard-2 nhưng phần trước thân xe có một số đặc điểm giống T-80 Nga, trước tháp pháo sử dụng các tấm liên hợp phẳng ngoài giáp chính hàn và dùng súng KWS III Rheinmetall. Trung Quốc gần như hết kiên nhẫn nhập khẩu kỹ thuật T-90 Nga, trong khi đó Ấn Độ đã đưa vào trang bị và triển khai sản xuất. Xe tăng "Báo Đen" XK2 do Hàn Quốc sản xuất cũng sao chép Leopard-2, do chưa sản xuất được trang bị công nghệ cao, đại bác, đạn dược tốt nên xe này dùng các bộ phận nhập khẩu, giá thành quá cao.

Chính xác về vai trò và chiến thuật ngày nay.[sửa | sửa mã nguồn]

Hồi Thế chiến 2, xe tăng đã gây nhiều bất ngờ. Bất ngờ lớn nhất là cả châu Âu bị xe tăng Đức nghiền nát. Những bất ngờ lớn nhất do tốc độ, khả năng tấn công của xe tăng diễn ra trước khi Nga tham chiến. Trong chiến tranh Vệ Quốc, xuất hiện những nhược điểm lớn của xe tăng. Một là, nó không thể tấn công thọc sâu mà không đi kèm bộ binh. Hai là, xe tăng ngốn hậu cần quá lớn, mỗi ngày nó cần nhiều tấn. Điều dó làm các đạo quân suy yếu chỉ sau 1-2 ngày bị cắt khỏi hậu phương, những trận đánh bao vây và phá vây của chiến tranh Vệ Quốc rất khốc liệt. Nhược điểm lớn nhất của xe tăng là không thể hỗ trợ mạnh mẽ bộ binh ở tầm rất ngắn bằng đạn nhỏ như súng máy các cỡ, không thể mang nhiều đạn trái phá lớn như pháo. Do đó, một tổ bộ binh nên kia hào chẳng hạn, gây nguy hiểm rất lớn cho xe tăng.

Trong quan niệm hiện dại. Xe tăng chỉ dùng để khắc chế các xe quân sự khác. Lực lượng tấn công chính là bộ binh và pháo binh. Khi xuất hiện nững vũ khí diệt xe quân sự mới, như tên lửa chống tăng có điều khiển, vai trò của xe tăng được đem ra tranh cãi. Những bài học từ lúc mới có xe tăng hiện nay vẫn được các lực lượng thực hành. Israel thất bại trong xung đột tháng 6-2006 do quá chủ quan với giáp liên hợp của họ, đặt xe tăng chiến đấu với bộ binh tránh xa bộ binh ta đi kèm. Xe tăng thích hợp nhất vẫn dành cho những trận đấu tăng, tuy nhiên, ngày nay ít có những trận chiến như vậy.

Đặc diểm cơ bản trong chiến thuật sử dụng xe tăng là bố trí xe tăng ở tiền duyên, không thể riêng tăng đi quá sâu vào tuyến địch và nếu ở sâu phía ta thì ít tác dụng. Khi đi sâu vào đất địch, phải đi kèm bộ binh và các binh chủng khác. Chiến thuật sử dụng xe tăng cũng gắn với việc tổ chức hậu cần và phòng thủ tuyến hậu cần. Có như thế mới tận dụng sức cơ dộng của xe tăng, nhanh chóng chiếm cơ hội.

Vì súng vẫn là hệ thống chiến đấu phổ biến trên bộ, nên xe tăng vẫn là lực lượng chiến đấu nòng cốt của lục quân. Tuy ngày càng có nhiều hệ thống chống tăng dựa trên tên lửa chống tăng có điều khiển, tăng vẫn làm lực lượng quyết định trên bộ. Để đối phó với các hệ thống tên lửa, xe tăng cần được nghiên cứu phát triển liên tục.

Huy Phúc Ninh Bình của http://ttvnol.com/quansu.ttvn 07:20, ngày 7 tháng 5 năm 2007 (UTC) có một số xe khác xe tăng ngày nay ở thái cực khác. Ví dụ, KV-1 (năm 1939) được coi là xe tăng lừng danh đầu chiến tranh, nó có giáp rất dầy, pháo cỡ nòng lớn nhưng nòng ngắn. KV-1 tốt nhưng quá tốn thép so với hiệu quả, nó đóng vai trò to lớn đầu chiến tranh, hậu duệ của nó chính là dòng IS. Sự xuất hiện của nhiều loại xe cơ giới bọc thép dẫn đến yêu cầu tiêu diệt chúng, xe để làm nhiệm vụ đó chính là xe tăng. Như vậy, xe tăng là vũ khí diệt xe bọc thép, và yêu cầu cao nhất với xe tăng là chiến đấu đối địch loại xe bọc thép sát thủ, chính là nhiệm vụ đấu tăng. Trong thế chiến 2, xe bọc thép các loại quyết định chiến trường, mà số phận của chúng được quyết định bởi xe tăng, vậy nên thế chiến 2 được quyết định bởi xe tăng, bởi các trận đấu tăng. Trận đấu xe tăng Prokhorovka ngày 12-7-1943 là trận đánh quyết định của chiến dịch Kursk, chiến dịch bản lề của chiến tranh.

Đầu thế chiến 2, khi quan niệm về xe tăng đúng nghĩa hình thành nhanh chóng, người ta chưa có nhiều súng lớn nòng dài và đạn cho chúng. Các xe tăng mạnh của Liên XôĐức lúc đó cải tiến những súng phòng không cho lên tăng, đó là những khẩu súng có tỷ lệ chiều dài/cỡ nòng (cal) từ gần 50 đến 70. Ví dụ như các khẩu Pak 88mm (Cal=56, còn gọi Pak 37 L56) phòng không sau đặt trên trên Panzer V. Các súng 57mm, 76mm, 85mm trên các loại T-34. Còn trước đó, ví dụ như KV 152mm, xe tăng giáp rất tốt, mang đại bác lớn nhưng nòng ngắn, hạn chế khả năng diệt tăng địch. Đầu thế chiến 2, một số xe T-34 mang pháo 76mm L-11 Cal=31, sau đổi lấy pháo F-34 CaL=42. Khi chưa có F-34, một số xe đầu chiến tranh Vệ Quốc mang pháo 57mm ZiS-2 57mm CaL=71 (có lẽ là pháo dài nhất trong các loại pháo tăng).

"Một số nước như Pháp, Liên Xô coi trọng chức năng trợ chiến cho bộ binh nên chế tạo một số loại xe vỏ thép rất nặng, hỏa lực rất mạnh, cơ động rất kém..."[sửa | sửa mã nguồn]

Khi Chiến tranh thế giới 2 xảy ra, chỉ có Liên XôĐức sở hữu những chiếc xe tăng: T-34, KV, Panzer-IIIPanzer-IV. Lúc này, người Đức đã sản xuất ổn định và sử dụng thành thạo xe tăng, còn người Nga thì vẫn cãi cọ về vai trò của cơ giới. Xe tăng KV-1 76mm có giáp tốt nhưng cơ động kém và quá tốn thép. Trong giai đoạn đầu chiến tranh thế giới 2, người Đức không có xe nào bắn thủng được KV, chỉ có thể tập trung bắn làm choáng tổ lái bên trong. Lúc này, người Đức chỉ có thể bắn hỏng được KV bằng súng phòng không Pak 88mm, điều này thúc đẩy việc cải tiến súng này đặt trên tăng cùng với chế tạo Tiger. Cũng giai đoạn đầu chiến tranh, khi Hồng Quân rút lui khắp các mặt trận thì T-34 lội ngược dòng, gây những tổn thất lớn cho quân Đức, như trận đánh bắt sống 400 xe quân sự Đức.

Panzer-IVT-34 chứng minh xe tăng phải như thế nào. Lúc này, những nước Anh, Mỹ mới vội vàng thiết kế xe tăng đầu tiên của họ. Một thử nghiệm nữa như chiếc T-95 Mỹ mang pháo 105mm nòng dài, bốn xích, nặng 95 tấn, giáp dầy 300mm. Xe cơ động rất kém, chứng tỏ nhược điểm trong chiến tranh, sau này được dùng như pháo tự hành với tên T-28.

"Xe Renault FT17 đã có bố trí cấu tạo về cơ bản rất giống với xe tăng ngày nay với tháp pháo có thể quay nhanh và nâng hạ góc bắn..."[sửa | sửa mã nguồn]

Xe T-35 (năm 1933-1939 Liên Xô sản xuất 61 chiếc) có số lượng rất ít ỏi, là một thử nghiệm của xe bọc thép hỗ trợ bộ binh, xe lớn nhiều tháp pháo súng nhỏ, xe này như dòng C2 Pháp.

Ngày nay, người Pháp thường tự hào rằng trước chiến tranh thế giới 2 họ là nước sản xuất xe tăng thứ 2 thế giới sau Liên Xô. Nhưng thực tế, họ không hề sản xuất được chiếc tăng nào lúc đó. R-35 là những xe mang súng 37mm nòng ngắn của họ liệu hơn gì lựu đạn cầm tay. (Gọi là súng cối 37mm cũng được vì cal=21). AMC-35 mang súng 40mm cal 32, mạnh hơn tí, là "xe tăng" chủ lực của Pháp trước chiến tranh thế giới 2. Churchill-III nặng 40 tấn nhưng chỉ mang được pháo tối đa 57mm nòng dài, là xe tăng đầu tiên của người Anh mãi trong chiến tranh thế giới 2 mới có, ngay cả lúc đầu Churchill-III mang pháo 75mm nòng ngắn cũng khó mà chiến đấu, xếp loại pháo tự hành tấn công. Churchill-IChurchill-II cũng mang pháo 40mm. Xe M3-Lee M3A3M3A5 thực ra là pháo tự hành tấn công 75mm nòng ngắn. Đến M4 mới là tăng hạng trung. M3 General Stuart mang pháo nòng dài, có hình dáng giống xe tăng, nhưng cỡ nòng quá nhỏ 37mm.

Xe Renault FT17 hay AMC-35 không phải là một xe tăng đúng, nó chỉ là một mô hình vô dụng của xe tăng do súng quá nhỏ, thiết kế hoàn toàn trái ngược với yêu cầu đấu tăng. Coi xe như vậy là xe tăng dẫn đến thất bại nhanh chóng của PhápBa Lan trong chiến tranh thế giới 2. Súng của nó chỉ đủ sức diệt bộ binh, vô ích với nhiệm vụ bắn đạn xuyên vỏ xe tăng đúng nghĩa. Các nước phát triển khác như Mỹ, Anh cũng có quan điểm sai như vậy. Nhiều xe họ sản xuất rất nặng nhưng lại mang súng nòng ngắn, hoàn toàn không có xe măng súng nòng dài bắn đạn xuyên.

Ý kiến sai cho rằng: "Xe tăng dể tấn công thọc sâu..."[sửa | sửa mã nguồn]

Xe tăng (tank), IFV, pháo tự hành tấn công...hợp thành đội quân tấn công, thọc sâu. Như vậy, nhiệm vụ chính của tăng không phải là nhiệm vụ tấn công thọc sâu, mà chỉ bảo vệ cho những xe khác làm nhiệm vụ đó, hoặc đối đầu với nhiệm vụ đó, chặn địch. Nhiệm vụ tấn công cơ bản được thực hiện bởi bộ binh. Tấn công thọc sâu được thực hiện bởi bộ binh cơ giới (đi trên xe IFV). Đội quân tấn công này xẽ bị xe tăng đối phương đánh chặn, cần những xe tăng quân ta đi kèm làm nhiệm vụ vệ sĩ. Đội quân này cũng cần pháo tự hành tấn công đi cùng để đánh chiếm công sự. Đôi khi, xe tăng cũng làm được nhiệm vụ của pháo tự hành tấn công và hỗ trợ bộ binh như IFV, nhưng không phải mặt mạnh của tăng là vậy. Đội quân cơ động thọc sâu này gọi là "binh chủng hợp thành", nòng cốt của lục quân hiện đại.

Thói quen dùng "Thiết Giáp" trong Tiếng Việt.[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, nhiều người Việt nhầm vì trong tiếng Việt, từ Hán-Việt "Thiết Giáp" dùng chỉ xe tăng. Nhưng từ "Xe Bọc Thép" thường lại dùng để chỉ IFV bởi cách nói chuyện thường, chỉ chung các xe có giáp trong văn viết. Mặc dù, về ngôn ngữ cổ, diễn Hán-Nôm thì "Thiết Giáp"="Bọc Thép".

Ý kiến sai: "Sau Chiến tranh thế giới 2 các loại xe tăng hạng nặng cũng tuyệt chủng..."[sửa | sửa mã nguồn]

Coi các xe tăng hạng nặng như IS-2, Tiger-2 sau chiến tranh tuyệt chủng là hoàn toàn sai lầm. IS-2 sau này trở thành kiểu mẫu của xe tăng hiện đại, rất giống nhiều loại xe tăng của Nga (Liên Xô cũ) hay Mỹ. Còn Panzer-VI hay là Tiger-2 có hậu duệ là những xe Leopard, chuyển từ hạng trung sang hạng nặng lúc Panzer-IV chuyển thành Panzer-V. Sau thế chiến 2, trình độ kỹ thuật không cho phép chế tạo được nhiều xe tăng nặng có hệ truyền động tin cậy. Cộng thêm cầu cống đường phà phổ biến không cho phép các xe 50 tấn di chuyển dễ dàng. Vì vậy, cũng như trong thế chiến 2, người ta chế tạo hai loại xe tăng phổ biến là xe hạng trung và xe hạng nặng. Xe hạng nặng vì các lý do trên có số lượng ít hơn, mặc dù sức chiến đấu cao và khả năng sản xuất khá thoải mái. Xe tăng hạng nặng Nga bắt đầu là KV-1, sau đổi tên thành dòng IS được cải tiến đến đời cuối là T-10 (còn gọi IS-10), xe T-34 Nga được cải tiến đến T-55. Sau đó, hai dòng T-62T-64 Nga đã có kích thước như nhau, chúng hòa nhập làm 1 thành MBT (Main Battle Tank-xe tăng chiến đấu chủ lực). Nhình chung, MBT ngày nay có kích thước của tăng hạng nặng hồi sau thế chiến 2, nếu nói một trong hai loại tuyệt chủng, thì phải nói tăng hạng trung mới đúng, còn các MBT ngày nay là hậu duệ của tăng hạng nặng.