USS Barney (DD-149)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Barney (DD-149)
Tàu khu trục USS Barney (DD-149)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Barney (DD-149)
Đặt tên theo Joshua Barney
Xưởng đóng tàu William Cramp and Sons, Philadelphia, Pennsylvania
Đặt lườn 26 tháng 3 năm 1918
Hạ thủy 5 tháng 9 năm 1918
Người đỡ đầu cô Nannie Dornin Barney
Nhập biên chế 14 tháng 3 năm 1919
Tái biên chế 1 tháng 5 năm 1930
Xuất biên chế
Xếp lớp lại AG-113, 30 tháng 6 năm 1945
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 13 tháng 10 năm 1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Wickes
Trọng tải choán nước
  • 1.154 tấn Anh (1.173 t) (thông thường),
  • 1.247 tấn Anh (1.267 t) (đầy tải)
Chiều dài 314,4 ft (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft (9,45 m)
Mớn nước 9 ft (2,74 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 24.610 hp (18.350 kW)
Tốc độ 35,3 kn (65,4 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 133 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Barney (DD–149) là một tàu khu trục thuộc lớp Wickes của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ AG-113 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân Joshua Barney (1759-1818).

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Barney được đặt lườn vào ngày 26 tháng 3 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng William Cramp & SonsPhiladelphia, Pennsylvania. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Nannie Dornin Barney, chắt của Thiếu tướng Barney, và được đưa ra hoạt động vào ngày 14 tháng 3 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân J. L. Kauffman.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Barney trình diện để hoạt động cùng Đội khu trục 19 trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương, và tham gia các cuộc tập trận hạm đội và cơ động dọc theo vùng bờ Đông cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1922, khi nó được cho xuất biên chế tại Philadelphia. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, Barney hoạt động cùng với Hải đội Khu trục thuộc Lực lượng Tuần tiễu dọc theo vùng bờ Đông và tại vùng biển Caribe, cho đến khi băng qua kênh đào Panama vào tháng 2 năm 1932 để tham gia tập trận Vấn đề Hạm đội ngoài khơi San Francisco. Tiếp tục ở lại vùng bờ Tây, nó phục vụ trong một thời gian với biên chế rút gọn cùng Hải đội Khu trục 20 thuộc Lực lượng Tuần tiễu. Đến năm 1935 nó thực hiện chuyến đi cùng với Đội khu trục 3 đến Alaska rồi đến Honolulu, và sau đó đến khu vực Puget Sound để tập trận hạm đội.

Quay trở lại vùng bờ Đông, Barney thực hiện các chuyến đi huấn luyện cùng với Hải đội huấn luyện 10 cho đến tháng 11 năm 1936, khi nó được cho xuất biên chế. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 4 tháng 10 năm 1939, nó phục vụ tuần tra cùng Đội 66 thuộc Hải đội Đại Tây Dương, và trong năm tiếp theo cùng Đội tuần tra Duyên hải thuộc Lực lượng Phòng thủ Quân khu 18 Hải quân.

Từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 11 năm 1943, Barney được phân về vùng biển Caribe hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Trinidad Tây Ấn thuộc Anhvịnh Guantánamo, Cuba. Vào ngày 18 tháng 9 năm 1942, nó va chạm với tàu chị em Greer, bị hư hại nặng và hai thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng do rơi xuống biển. Cả hai con tàu phải quay trở về Willemstad, Curaçao, Tây Ấn thuộc Hà Lan, nơi việc sửa chữa tạm thời được tiến hành, rồi Barney khởi hành quay về Xưởng hải quân Charleston. Việc sửa chữa triệt để hoàn tất vào tháng 12 năm 1942, và nó quay trở lại khu vực biển Caribe.

Từ ngày 14 tháng 1 đến tháng 5 năm 1944, Barney hoàn tất hai chuyến hộ tống đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương đến Bắc Phi. Từ tháng 5 năm 1944 đến tháng 2 năm 1945, nó lại hộ tống các đoàn tàu vận tải tại vùng biển Caribe. Sang tháng 3 năm 1945, nó được phân về Lực lượng Đặc nhiệm 25 tham gia các hoạt động huấn luyện cùng tàu ngầm tại các eo biển Long IslandBlock Island. Đến ngày 30 tháng 6 năm 1945, nó được xếp lại lớp như tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-113. Barney được cho ngừng hoạt động vào ngày 30 tháng 11 năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 13 tháng 10 năm 1946.

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Barney được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]