Chiến tranh Liban 2006

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Xung đột Israel-Liban năm 2006)
Chiến tranh Liban 2006
Một phần của Xung đột Ả Rập-Israel, xung đột Israel-Libancuộc chiến chống khủng bố

Khói lửa trên vùng trời thành phố Týros, Liban sau trận oanh kích của Israel.
Thời gian12 tháng 7, 2006 — 14 tháng 8, 2006
Israel ngừng phong tỏa Liban vào ngày 8 tháng 9 , 2006
Địa điểm
Kết quả
Tham chiến
 Israel Hezbollah
Amal[8]
LCP[9]
PFLP-GC[10]
Chỉ huy và lãnh đạo
Israel Ehud Olmert
Israel Amir Peretz
Israel Dan Halutz
Israel Moshe Kaplinsky[4]
Israel Udi Adam
Israel Eliezer Shkedi
Israel David Ben Ba'ashat
Hassan Nasrallah
Imad Mughniyeh
Lực lượng
10.000 lính (30.000 vào những ngày cuối) (+ Không lực Israel & Hải quân Israel)[5][6] 3.000 lính thực chiến (5.000–10.000 vào những ngày cuối cùng)
10.000 quân dự bị[11][12]
Thương vong và tổn thất

Quân lực Israel:
121 chết
(gồm 2 người bị bắt)

628 bị thương[7]

Quân Hezbollah:
Chết:
250 (Hezbollah tự công bố)
≤500 (Ước tính của quan chức Liban)[13]
~500 (Ước tính của quan chức LHQ)[14]
~600 (Ước tính của Quân lực Israel)[15]
Bị thương: không rõ Bị bắt: 13[16] (9 được thả)
Dân quân Amal: 17 chết
Quân LCP: 12 chết
Quân PFLP-GC: 2 chết


Quân của Lực lượng phòng vệ Cách mạng Iran: ~6-9[17][18]

Quân đội Liban: 28 người chết[19]

Công dân Israel:
44 chết[20][21]
4.262 bị thương[22]


Công dân Liban:
1.191[23] chết
4.409 bị thương


Công dân nước ngoài
53 chết[24]
25 bị thương


Liên Hợp Quốc:

5 chết
12 bị thương[25]

Chiến tranh Liban năm 2006 hay Chiến tranh Israel-Hezbollah năm 2006, Chiến tranh tháng 7 (tiếng Ả Rập: حرب تموز, Harb Tammuz) hay ở Israel thì gọi là Chiến tranh Liban lần 2 (tiếng Do Thái: מלחמת לבנון השנייה, Milhemet Levanon HaShniya), là cuộc xung đột quân sự kéo dài 34 ngày ở Liban và miền bắc Israel. Các bên tham chiến chủ yếu là lực lượng bán quân sự Hezbollahquân đội Israel. Cuộc xung đột bắt đầu vào ngày 12 tháng 7 năm 2006, và tiếp tục cho đến khi thoả thuận ngừng bắn do Liên Hợp Quốc làm trung gian có hiệu lực vào buổi sáng ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức kết thúc vào ngày 08 tháng 9 năm 2006 khi Israel dỡ bỏ việc phong tỏa hải phận Liban.

Cuộc xung đột bắt đầu khi các chiến binh Hezbollah bắn rocket vào các thị trấn biên giới Israel như một hành động trả đũa cuộc tấn công bằng tên lửa chống tăng trên hai chiếc Humvee bọc thép ở hàng rào biên giới. Các cuộc phục kích đã làm cho 3 binh binh sĩ thiệt mạng, còn hai binh sĩ khác được cho là đã bị Hezbollah bắt đưa qua Liban[26][27][28]. Năm người nữa thiệt mạng trong một nỗ lực giải cứu không thành công. Hezbollah đòi Israel phóng thích các tù nhân Liban để đổi lấy các binh sĩ Israel bị bắt cóc. Israel từ chối và đáp trả bằng cuộc không kích quy mô lớn và bắn pháo vào các mục tiêu ở Liban. Isreal tấn công cả các mục tiêu quân sự của Hezbollah lẫn cơ sở hạ tầng dân sự của Liban, bao gồm cả Sân bay quốc tế Rafic Hariri Beirut (mà Israel nói rằng Hezbollah sử dụng để nhập khẩu vũ khí và vật tư)[29], phong tỏa không phận và hải phận,[30] và tiến hành một cuộc xâm lược vào miền Nam Liban. Hezbollah sau đó đã phóng nhiều rocket vào miền bắc Israel và đã đụng độ với Các lực lượng phòng vệ Israel trong các cuộc chiến du kích từ các vị trí cố thủ[31]. Cuộc xung đột đã giết chết ít nhất 1.300 người, chủ yếu là công dân Liban[32][33][34][35][36], gây thiệt hại cho cơ sở hạ tầng dân sự Lebanon, và làm khoảng một triệu người Liban và 300.000-500.000 người Israel phải rời bỏ nhà cửa [37], mặc dù hầu hết những người Israel này đã có thể trở về nhà của họ[22][38][39].[40] Sau khi ngừng bắn, một số khu vực của miền Nam Liban vẫn không thể ở được do bom bi của Israel chưa phát nổ.[40]

Ngày 11 tháng 8 năm 2006, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã nhất trí thông qua Nghị quyết 1701 trong một nỗ lực chấm dứt thù địch. Nghị quyết này đã được chính phủ cả hai quốc gia Israel và Liban phê chuẩn vào ngày hôm sau, kêu gọi giải giáp Hezbollah, rút quân Israel khỏi Liban và bố trí lính LibanLực lượng lâm thời Liên Hợp Quốc tại Liban (UNIFIL) đông hơn ở phía nam. UNIFIL được trao ủy quyền lớn hơn, bao gồm khả năng sử dụng vũ lực để đảm bảo rằng khu vực hoạt động không được sử dụng cho các hoạt động thù địch.[41] Quân đội Liban bắt đầu triển khai tới Nam Liban vào ngày 17 tháng 8 năm 2006. Sự phong toả của Israel được dỡ bỏ vào ngày 8 tháng 9 năm 2006.[42] Ngày 1 tháng 10 năm 2006, phần lớn lực lượng Israel đã rút khỏi Liban nhưng nhóm cuối cùng vẫn tiếp tục chiếm đóng ngôi làng xuyên biên giới hai nước là Ghajar.[43] Trong thời gian kể từ khi ban hành UNSCR 1701, cả Chính phủ Liban lẫn Chính phủ Israel đều tuyên bố rằng họ sẽ không giải giáp Hezbollah.[44][45][46] Sau đó, hai binh sĩ bị giam giữ đã được trao trả cho Israel vào ngày 16 tháng 7 năm 2008 trong một đợt trao đổi tù binh giữa Israel và Hezbollah.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Olmert claims Lebanon War was a success
  2. ^ Both Hezbollah and Israeli leaders declare victory
  3. ^ Lebanese paper: Don't buy Nasrallah's claims
  4. ^ "Two Northern Command chiefs?", Ynetnews, ngày 8 tháng 8 năm 2006; See also, "IDF officials: Maj. Gen. Adam must quit post after war"; "Israel swaps commanders"; "Israel names new commander to head offensive" Agence France-Presse, Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009; "Israel changes command structure"[liên kết hỏng]
  5. ^ “Israel captures guerrillas in Hezbollah hospital raid”. USA Today. ngày 2 tháng 8 năm 2006.
  6. ^ “Some 30,000 Israeli troops in Lebanon — army radio”. Reuters. ngày 13 tháng 8 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2010.
  7. ^ Winograd Commission Report, trang 353
  8. ^ Daily Star. "Timeline of the July War 2006" Lưu trữ 2010-12-10 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2007.
  9. ^ Herbert Docena (ngày 17 tháng 8 năm 2006). “Amid the bombs, unity is forged”. Asia Times Online. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2010. The LCP...has itself been very close to Hezbollah and fought alongside it in the frontlines in the south. According to Hadadeh, at least 12 LCP members and supporters died in the fighting.
  10. ^ Associated Press (ngày 6 tháng 8 năm 2006). “PFLP claims losses in IDF strike on Lebanon base”. The Jerusalem Post.
  11. ^ 2006/strength-of-israel-lebanon-and-hezbollah/ International Institute for Strategic Studies[liên kết hỏng]
  12. ^ Hirst, David: Beware of Small States; Lebanon, Battleground of the Middle East (2010)
  13. ^ Con Coughlin (ngày 4 tháng 8 năm 2006). “Teheran fund pays war compensation to Hizbollah families”. The Daily Telegraph. London. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2007.
  14. ^ Patrick Bishop (ngày 22 tháng 8 năm 2006). “Peacekeeping force won't disarm Hizbollah”. The Daily Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2007. A UN official estimated the deaths at 500
  15. ^ “Lebanon Sees More Than 1,000 War Deaths”. AP via Usti.net. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2011. "Israel initially said 800 Hezbollah fighters died but later lowered that estimate to 600."
  16. ^ Carolynne Wheeler & Mark MacKinnon (ngày 16 tháng 8 năm 2006). “Israel begins pullout as ceasefire holds”. The Globe and Mail. tr. A13.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)[liên kết hỏng] "Israeli army officials indicated they have 13 captured Hezbollah fighters "
  17. ^ “NYsun.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2010.
  18. ^ Ynetnews.com
  19. ^ Best, Antony (ngày 29 tháng 5 năm 2008). “The Arab-Israeli Conflict”. International History of the Twentieth Century and Beyond. Maiolo Joseph, Schulze Kirsten (ấn bản 2). Routledge. tr. 450. ISBN 978-0415438964. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
  20. ^ “State snubbed war victim, family says”. Ynet. ngày 30 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2008.
  21. ^ BBC News Online (ngày 8 tháng 3 năm 2007). "PM 'says Israel pre-planned war'". Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2007.
  22. ^ a b Israel Ministry of Foreign Affairs (ngày 12 tháng 7 năm 2006). "Hizbullah attacks northern Israel and Israel's response"; retrieved ngày 5 tháng 3 năm 2007.
  23. ^ “Report of the Commission of Inquiry on Lebanon pursuant to Human Rights Council resolution S-2/1” (PDF). Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. ngày 23 tháng 11 năm 2006. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2008.
  24. ^ Xem Casualties of the 2006 Lebanon War#Foreign civilian casualties in IsraelCasualties of the 2006 Lebanon War#Foreign civilian casualties
  25. ^ UN.org
  26. ^ New York Times (ngày 12 tháng 7 năm 2006). "Clashes spread to Lebanon as Hezbollah raids Israel" Lưu trữ 2006-07-17 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2007.
  27. ^ ABC.net.au
  28. ^ Israelnationalnews.com
  29. ^ “Israeli warplanes hit Beirut suburb”. CNN. ngày 14 tháng 7 năm 2006.
  30. ^ Cody, Edward (ngày 24 tháng 8 năm 2006). “Lebanese Premier Seeks U.S. Help in Lifting Blockade”. Washington Post.
  31. ^ Urquhart, Conal (ngày 11 tháng 8 năm 2006). “Computerised weaponry and high morale”. London: The Guardian. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2006.
  32. ^ guardian.co.uk (ngày 14 tháng 9 năm 2006). "Amnesty report accuses Hizbullah of war crimes". Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  33. ^ Reuters via The Epoch Times (ngày 6 tháng 8 năm 2006). "No Let Up in Lebanon War". Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  34. ^ Associated Press via CHINAdaily (ngày 30 tháng 7 năm 2006). "Rice postpones trip to Beirut". Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  35. ^ Sarah Martin and Kristele Younes, Refugees International (ngày 28 tháng 8 năm 2006). "Lebanon: Refugees International's Statement for Donors' Conference" Lưu trữ 2008-05-17 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  36. ^ Human Rights Watch (August 2006). "Fatal Strikes: Israel’s Indiscriminate Attacks Against Civilians in Lebanon". Truy cập 2007-04-05.
  37. ^ Lebanon Higher Relief Council (2007). "Lebanon Under Siege" Lưu trữ 2006-09-27 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2007.
  38. ^ “Middle East crisis: Facts and Figures”. BBC News Online. ngày 31 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2008.
  39. ^ “Israel says it will relinquish positions to Lebanese army”. ngày 15 tháng 8 năm 2006. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
  40. ^ a b 'Million bomblets' in S Lebanon”. BBC News Online, 2006-09-26. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2008.
  41. ^ “Lebanon: UN peacekeepers lay out rules of engagement, including use of force”. UN News Centre. ngày 3 tháng 10 năm 2006.
  42. ^ Pannell, Ian (ngày 9 tháng 9 năm 2006). “Lebanon breathes after the blockade”. BBC News Online. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2008.
  43. ^ UN peacekeepers: Israeli troops still in Lebanon, CNN
  44. ^ Spiegel Online (ngày 16 tháng 8 năm 2006). "Who Will Disarm Hezbollah?". Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2007.
  45. ^ People's Daily Online (ngày 19 tháng 8 năm 2006). "Indonesia refuses to help disarm Hezbollah in Lebanon". Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2007.
  46. ^ International Herald Tribune (ngày 18 tháng 9 năm 2006). "U.N. commander says his troops will not disarm Hezbollah"., ngày 14 tháng 2 năm 2007.