Âm hoàng hậu (Hán Hòa Đế)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu
孝和陰皇后
Hán Hòa Đế Hoàng hậu
Hoàng hậu nhà Hán
Tại vị96 - 102
Tiền nhiệmChương Đức Đậu Hoàng hậu
Kế nhiệmHòa Hi Đặng Hoàng hậu
Thông tin chung
Sinh?
Nam Dương, Hà Nam
Mất103
Lạc Dương
An tángLâm Bình Đình bộ (臨平亭部)
Phối ngẫuHán Hòa Đế
Lưu Triệu
Tước hiệu[Quý nhân; 貴人]
[Hoàng hậu;皇后]
[Thứ nhân; 庶人]
Thân phụÂm Cương

Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi Phế hậu Âm thị (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán.

Bà là vị Phế hậu thứ hai của nhà Đông Hán sau Hoàng hậu Quách Thánh Thông của Hán Quang Vũ Đế. Trong khi đó, bà lại có quan hệ họ hàng với Âm Lệ Hoa - Kế hậu của Quang Vũ Đế.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Âm hoàng hậu xuất thân danh giá, dòng dõi gia tộc Tân Dã Âm thị (新野陰氏) ở huyện Tân Dã, quận Nam Dương, Hà Nam, có nguồn gốc từ Quản Trọng nước Tề. Bà là con gái của Âm Cương (陰綱), cháu nội của Âm Thức (陰識) - huynh trưởng của Quang Liệt Âm hoàng hậu, Kế hoàng hậu của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú[1]. Theo Hậu Hán thư ghi lại, Âm thị từ nhỏ thông tuệ, giỏi đọc sách và các món nữ công gia chánh, cầm kì thi họa.

Năm Vĩnh Nguyên thứ 4 (92), Âm thị nhập cung, do là cháu mấy đời của Quang Liệt hoàng hậu nên rất được chiếu cố, phong làm Quý nhân, được Hán Hòa Đế sủng ái[2].

Năm thứ Vĩnh Nguyên 8 (96), sau nhiều lần bàn định, Hán Hòa Đế lập Âm quý nhân làm Hoàng hậu[3]. Ngoại thích họ Âm từ đó được gia ân, cha bà Âm Cương được phong Ngô Phòng hầu (吳房侯), quan tước đặc biệt chiếu cố, 3 người anh em của Âm hoàng hậu là Âm Dật (陰軼), Âm Phụ (陰輔) và Âm Xưởng (陰敞) đều vào cung phong làm Hoàng môn Thị lang (黃門侍郎).

Bị phế[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng trong năm Vĩnh Nguyên thứ 8, cháu nội của Khai quốc công thần Đặng VũĐặng Tuy tiến cung, phong làm Quý nhân. Từ khi Đặng quý nhân xuất hiện, Âm hậu giở thói ghen tuông mù quáng, khiến Hán Hòa Đế chán ghét. Biết Hoàng đế đang hiếm muộn, Đặng quý nhân luôn tạo điều kiện cho Hòa Đế ân ái với phi tần khác, trong khi Âm hoàng hậu lại ngăn cản, bắt Hòa Đế xa lánh cung phi. Đặng thị do đó ngày càng nổi tiếng hiền đức ở trong cung.

Năm Vĩnh Nguyên thứ 13 (101), Hán Hòa Đế lâm bệnh, ở trong Chương Đức cung, ban lệnh: "Không ai được vào nếu không được gọi". Nghĩ Hòa Đế không qua khỏi, Âm hậu nói với mọi người sau khi Hòa Đế mất sẽ đắc chí trả thù Đặng quý nhân. Một cung nữ vì thương Đặng quý nhân nên lén đi báo, Đặng Tuy ca thán: "Ta dụng tâm đối đãi Hoàng hậu, không những không được lòng cảm thương của người, lại bị xem là tội đồ. Ta tuy thân phận đàn bà, nhưng cũng xin như Chu Công thỉnh mệnh giúp bệnh Chu Vũ vương; Việt Cơ tự sát vì Sở Chiêu vương. Như thế, trên có thể báo đáp thiên ân của Hoàng đế, dưới có thể bảo toàn gia tộc họ Đặng tránh họa diệt môn, tránh cho bản thân ta bị biến thành Nhân trư nhục nhã"[4].

Năm Vĩnh Nguyên thứ 14 (102), có người tố cáo Âm hậu bí mật nhờ bà ngoại là Đặng Chu (鄧朱) nuôi trùng độc hại Đặng quý nhân. Hán Hòa Đế tức giận, lệnh cho Trung thường thị Trương Thận (張慎) và Thượng thư Trần Bao (陳褒) thẩm vấn Đặng Chu cùng những người có liên can. Hai người con của Đặng Chu tên Phụng (奉), Nghi (毅) cùng em trai của Âm hậu là Âm Dật và Âm Phụ bị tra khảo. Phụng, Nghi và Âm Phụ chết trong ngục[5]. Hòa Đế cho rằng Hoàng hậu thất đức, bèn sai Tư đồ Lỗ Cung (魯恭) đến Trường Thu cung tịch thu sách bảo và ấn tín của Âm hậu, đày bà vào Đồng cung (桐宮) - nơi giam giữ tội nhân.

Năm đó, tháng 6, ngày Tân Mão, Hòa Đế ra chỉ phế truất Âm hoàng hậu, Ngô Phòng hầu Âm Cương tự sát[6]; Âm Dật, Âm Xưởng cùng nhà ngoại của Âm hậu đều bị bãi chức, phải di dời sang nơi khác[7]. Năm Vĩnh Nguyên thứ 15 (103), uất ức về việc bị phế, Âm hậu qua đời, độ chừng 23 tuổi, được an táng ở Lâm Bình Đình bộ (臨平亭部)[8]. Mùa đông năm đó, Đặng Tuy được lập làm Kế hậu[9].

Vào năm Vĩnh Sơ thứ 4 (110), Đặng Tuy khi này là Hoàng thái hậu nắm quyền thiên hạ, hạ chỉ cho phép người nhà Âm hậu quay về cố hương, trao trả tài sản cho họ hơn 500 vạn thạch[10].

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:和帝阴皇后讳某,光烈皇后兄执金吾识之曾孙也。
  2. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:后少聪慧,善书艺。永元四年,选入掖庭,以先后近属,故得为贵人。有殊宠。
  3. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:八年,遂立为皇后。
  4. ^ Hậu Hán thư - Hoàng hậu kỉ - "Hòa Hi Đặng hoàng hậu"
  5. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:后外祖母邓朱出入宫掖。十四年夏,有言后与朱共挟巫蛊道,事发觉,帝遂使中常侍张慎与尚书陈褒于掖庭狱杂考案之。朱及二子奉、毅与后弟轶、辅、敞辞语相连及,以为祠祭祝诅,大逆无道。奉、毅、辅考死狱中。帝使司徒鲁恭持节赐后策,上玺绶,迁于桐宫………
  6. ^ 《后汉书·卷四·孝和孝殇帝纪第四》:六月辛卯,废皇后阴氏,后父特进纲自杀。
  7. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:父特进纲自杀。轶、敞及朱家属徙日南比景县,宗亲外内昆弟皆免官还田里。
  8. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:以忧死。立七年,葬临平亭部。
  9. ^ 《后汉书·卷十·皇后纪第十》十四年夏,阴后以巫蛊事废,后请救不能得,帝便属意焉。后愈称疾笃,深 自闭绝。会有司奏建长秋宫,帝曰:“皇后之尊,与朕同体,承宗庙,母天下, 岂易哉!唯邓贵人德冠后庭,乃可当之。”至冬,立为皇后。辞让者三,然后即 位。手书表谢,深陈德薄,不足以充小君之选。
  10. ^ 《后汉书·卷十上·皇后纪第十上》:永初四年,邓太后诏赦阴氏诸徙者悉归故郡,还其资财五百余万。

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Tôn Nhan (1997), Hậu phi truyện, Nhà xuất bản Phụ nữ
  • Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng
  • Đặng Huy Phúc (2001), Các hoàng đế Trung Hoa, Nhà xuất bản Hà Nội