Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lữ Giang”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
GiaTranBot (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
n + 11 thể loại dùng HotCat
 
(Không hiển thị 10 phiên bản của 3 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
<!-- Vui lòng không xóa hoặc thay đổi tin nhắn xóa bài này (AfD) cho đến khi cuộc thảo luận đã kết thúc. -->
<!-- Sau khi biểu quyết được đóng lại, xin vui lòng đặt trên trang thảo luận: {{Đã biểu quyết giữ|1=Wikipedia:Biểu quyết xoá bài/Lữ Giang}} -->
<!-- Kết thúc tin nhắn xóa bài (AfD), vui lòng sửa đổi sau dòng này -->
{{Nhiều vấn đề|{{Không nổi bật|Biographies|date=tháng 2/2022}}
{{Nhiều vấn đề|{{Không nổi bật|Biographies|date=tháng 2/2022}}
{{Văn phong|date=tháng 2/2022}}
{{Văn phong|date=tháng 2/2022}}
{{Chú thích trong bài|date=ngày 9 tháng 2 năm 2022}}}}
{{Chú thích trong bài|date=ngày 9 tháng 2 năm 2022}}}}
[[Tập tin:Tài liệu lịch sử học viện chính trị.jpg|nhỏ|Ảnh Chân dung ông Lữ Giang tại kỷ yếu của trường Chính trị quân đội]]
'''Lữ Giang''' (1918 – 1987) tên thật là '''Nguyễn Trương Bờn''', một cán bộ quân sự của [[Quân đội nhân dân Việt Nam|Quân đội Nhân dân Việt Nam]]<ref>{{Chú thích web|url=https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/ky-su/dai-ta-lu-giang-nguoi-thay-dau-tien-677980|tựa đề=Đại tá Lữ Giang-Người thầy đầu tiên|ngày=ngày 19 tháng 11 năm 2021|website= [[Báo Quân đội nhân dân]]|url-status=live|ngày truy cập=ngày 8 tháng 2 năm 2022}}</ref>, với quân hàm Đại tá. Năm 1948 ông đổi tên là Lữ Giang để giữ bí mật khi vào vùng địch hậu (Bình Trị Thiên).
{{Tiểu sử quân nhân
{{Tiểu sử quân nhân
| name = Lữ Giang
| image =
| image = Ảnh đại tá Lữ Giang.jpg
| caption = Ông Lữ Giang - Ảnh do Nhà xuất bản Quân đội cung cấp
| caption = Ông Lữ Giang - Ảnh do Nhà xuất bản Quân đội cung cấp
| image_size = 275px
| image_size = 275px
| birth_name = Nguyễn Trương Bờn
| birth_name = Nguyễn Trương Bờn
| country = {{VIE}}
| country = {{VIE}}
| birth_place = xã Thượng Xá (nay là xã Nghi Xá), huyện [[Nghi Lộc]], [[Nghệ An]]
| birth_place = Nghi Xá, huyện [[Nghi Lộc]], [[Nghệ An]]
| death_date = 1987, [[Thành phố Hồ Chí Minh|Hồ Chí Minh]]
| cấp bậc = {{QH|đại tá}}
| cấp bậc = {{QH|đại tá}}
}}Lữ Giang (1918 - 1987), tên thật là '''Nguyễn Trương Bờn''', quê ở xã Nghi Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. <ref name=":0" /> Ông là cán bộ quân sự quân hàm Đại tá của [[Quân đội nhân dân Việt Nam|Quân đội Nhân dân Việt Nam]] <ref name=":0">{{Chú thích web|url=https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/ky-su/dai-ta-lu-giang-nguoi-thay-dau-tien-677980|tựa đề=Đại tá Lữ Giang-Người thầy đầu tiên|ngày=ngày 19 tháng 11 năm 2021|website=[[Báo Quân đội nhân dân]]|url-status=live|ngày truy cập=ngày 8 tháng 2 năm 2022}}</ref>. Vào năm 1948, ông đổi tên thành Lữ Giang nhằm thâm nhập vào vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên và hoạt động với vai trò Chính uỷ Phân khu Bình Trị Thiên. <ref name=":1" />
}}
Ông được kết nạp vào [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] vào năm 1936 <ref name=":1">{{Chú thích web|url=https://ct.qdnd.vn/ho-so-tu-lieu/dai-ta-lu-giang-nguyen-truong-bon-nha-giao-lam-xuat-ban-527440|tựa đề=Đại tá Lữ Giang - Nguyễn Trương Bờn: Nhà giáo làm xuất bản|tác giả=Kiều Mai Sơn|url-status=live}}</ref> và tham gia vào hai cuộc [[Chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]], [[Chiến tranh Việt Nam|chống Mỹ]] ở nhiều mặt trận khác nhau: Quân sự - Chính trị, Tư tưởng - Văn hoá.

Ông tham gia hoạt động cách mạng và được kết nạp vào [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] từ năm 1936, tham gia 2 cuộc [[Chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]] và [[Chiến tranh Việt Nam|chống Mỹ]] ở các mặt trận: Quân sự và Chính trị - Tư tưởng – Văn hóa.


== Thân thế và sự nghiệp ==
== Thân thế và sự nghiệp ==


Ông sinh năm 1918, quê xã Thượng Xá (nay là xã Nghi Xá), huyện [[Nghi Lộc]], tỉnh [[Nghệ An]].
Ông sinh năm 1918, quê xã Thượng Xá (nay là xã Nghi Xá), huyện [[Nghi Lộc]], tỉnh [[Nghệ An]]. <ref name=":0" />


Thân phụ ông là Nguyễn Trương Diễm, một nhà Nho yêu nước, đỗ Tú tài Hán học, được bà con trong vùng gọi là cụ Hàn Diễm. Gia đình ông truyền thống yêu nước, các anh trai đều tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, có người là sang lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cha ông là Nguyễn Trương Diễm, một nhà Nho yêu nước, đã đỗ Tú tài Hán học trường thi Nghệ An. Cha ông được bà con trong vùng gọi là cụ Hàn Diễm. <ref name=":1" /><ref name=":0" />


Gia đình ông có truyền thống yêu nước, các anh trai đều tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, có người là sang lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. <ref name=":1" />
Anh cả là Nguyễn Trương Nhĩ. Anh trai thứ hai là Nguyễn Trương Thúy, người sáng lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và là Bí thư Huyện ủy Xuân Trường. Hiện nay, tại huyện Xuân Trường có trường THPT Nguyễn Trương Thúy. Anh trai thứ ba là Nguyễn Trương Khoát, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ NN-PTNT).


Anh cả ông là Nguyễn Trương Nhĩ. <ref name=":1" />
Hồi còn nhỏ, Nguyễn Trương Bờn ở với cha mẹ. Năm lên 5, 6 tuổi học chữ Nho với cha, lên 7 tuổi theo anh cả Nguyễn Trương Nhĩ đi học ở Thanh (chợ Đu, Thiệu Hóa). Từ 8 tuổi đến 13 tuổi, theo anh thứ hai Nguyễn Trương Thúy đi học ở Nam Định (Năng Tĩnh, Lạc Quần, Xuân Trường, Hải Hậu)<ref>{{Chú thích sách|title=Lý lịch tự thuật của Đại tá Lữ Giang lưu tại gia đình}}</ref>.


Anh trai thứ hai là Nguyễn Trương Thúy (còn được gọi là Nguyễn Trường Thuý), là người sáng lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Xuân Trường, tỉnh [[Nam Định]] và là Bí thư Huyện ủy Xuân Trường. Ông đã qua đời vào năm 1955. Để ghi nhớ công lao của ông, ở huyện Xuân Trường, tỉnh [[Nam Định]] đã có một ngôi trường THPT mang tên Nguyễn Trương Thuý. <ref name=":0" /><ref name=":1" />
Năm 15 tuổi thi đỗ vào trường Trung học ở Vinh.


Anh trai thứ ba là Nguyễn Trương Khoát, nguyên Bí thư Tỉnh ủy [[Nghệ An]], Cục trưởng [[Cục Bảo vệ thực vật (Việt Nam)|Cục Bảo vệ Thực vật]] ([[Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Việt Nam)|Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn]]). <ref name=":1" />
Hè năm 1936, nghỉ học về nhà, được chi bộ xã Thượng Xá kết nạp vào Đảng. Người giới thiệu là Nguyễn Trương Khoát và Nguyễn Trương Lâm. Người công nhận là Nguyễn Đức Dương, đại biểu Huyện ủy Nghi Lộc (sau này là Khu ủy viên khu 5, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê).


Hồi còn nhỏ, Nguyễn Trương Bờn ở với cha mẹ. Năm lên 5, 6 tuổi học chữ Nho với cha, lên 7 tuổi theo anh cả Nguyễn Trương Nhĩ đi học ở Thanh (chợ Đu, Thiệu Hóa). Từ 8 tuổi đến 13 tuổi, theo anh thứ hai Nguyễn Trương Thúy đi học ở Nam Định (Năng Tĩnh, Lạc Quần, Xuân Trường, Hải Hậu) <ref>{{Chú thích sách|title=Lý lịch tự thuật của Đại tá Lữ Giang lưu tại gia đình}}</ref>.
Năm 1937, thi đỗ Trung học, cuối năm đó ra học trường thư thục Thăng Long (Hà Nội) do các thầy giáo Nguyễn Bá Húc (Hiệu trưởng), Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phạm Huy Thông,… giảng dạy.


Năm 15 tuổi, ông thi đỗ vào trường Trung học ở [[Vinh]].
Được mấy tháng bị ốm, nhà không đủ tiền trợ cấp, nên bỏ học về nhà.


Hè năm 1936, được chi bộ xã Thượng Xá (nay là xã Nghi Xá) kết nạp vào Đảng. Người giới thiệu là Nguyễn Trương Khoát và Nguyễn Trương Lâm (sau này là bí thư chi bộ trường Đại học Thương Nghiệp nhiều năm). Người công nhận là Nguyễn Đức Dương, đại biểu Huyện ủy [[Nghi Lộc]] (sau này là Khu ủy viên khu 5, Tổng cục trưởng [[Tổng cục Thống kê (Việt Nam)|Tổng cục Thống kê]]).
Cuối năm 1937 cưới vợ. Đầu năm 1938, đi dạy tư ở trường Đông Hải (Hải Dương). Một người học trò trong thời gian dạy học tại trường tư thục Đông Hải (Hải Dương) sau này là Cục trưởng Cục Xuất bản (Bộ Văn hóa) là bà Trần Thị Minh Châu.


Vào năm 1937, ông thi đỗ Trung học. Cuối năm đó, Nguyễn Trương Bờn ra [[Hà Nội]] và học trường Trung học Tư thục Thăng Long dưới sự dạy dỗ của thầy Nguyễn Bá Húc - Hiệu trưởng, giáo viên dạy toán; [[Võ Nguyên Giáp]], [[Đặng Thai Mai]], [[Phạm Huy Thông]],... <ref name=":0" />
Sau 6 tháng, về dạy ở Vinh đồng thời trông coi hiệu sách Hồng Lam của Đảng. Thời gian này, ông thường đi Hà Nội, giao thiệp với các ông Phạm Văn Huệ (Hiệu sách Đồng Xuân), Đào Duy Kỳ, Trịnh Hoài Đức, Trần Đình Tri.


Đầu năm 1938, ông đi dạy tư ở trường tư thục Đông Hải, thị xã Hải Dương, tỉnh [[Hải Dương]]. Thời gian dạy học tại đây, ông đã truyền bá tư tưởng cách mạng và yêu nước cho học trò, tiếp tục hoạt động cách mạng. Một trong những người học trò trong thời gian dạy học tại trường Đông Hải của ông sau này là Cục trưởng [[Cục Xuất bản, In và Phát hành (Việt Nam)|Cục Xuất bản]] ([[Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam)|Bộ Văn hóa]]) - bà Trần Thị Minh Châu. <ref name=":1" />
Hiệu sách bị mật thám đóng cửa, ông về nhà hoạt động rồi đầu năm 1939 lên dạy trường Chung Anh ở Đô Lương. Thời gian dạy học ở đây chỉ 6 tháng song được tín nhiệm, thường tuyên tuyền cho học sinh tinh thần yêu nước, căm ghét thực dân đế quốc áp bức bóc lột.


Sau 6 tháng, về dạy ở Vinh đồng thời trông coi hiệu sách Hồng Lam của Đảng. Thời gian này, ông thường đi Hà Nội, giao thiệp với các ông Phạm Văn Hảo (Hiệu sách Đồng Xuân) <ref name=":1" />, Đào Duy Kỳ, [[Trịnh Hoài Đức]], Trần Đình Tri.
Cuối 1939, làm thư ký Thuế quan Hà Nội, sau đó làm Thư ký cho một hãng thầu khoán ở Sơn Tây, ở Phủ Diễn, Tân Ấp rồi sang Lào (1940 – 1943).


Hiệu sách bị mật thám đóng cửa, thầy giáo Nguyễn Trương Bờn bị mật thám Pháp theo dõi. <ref name=":1" /> Chính vì vậy mà ông trở về quê nhà hoạt động. Một thời gian sau, đầu năm 1939, ông đi dạy trường Chung Anh ở Đô Lương, [[Nghệ An]]. <ref name=":0" /> Thời gian dạy học ở đây chỉ 6 tháng song được tín nhiệm, thường tuyên tuyền cho học sinh tinh thần yêu nước, căm ghét thực dân đế quốc áp bức bóc lột.
Năm 1943, bị ốm về nhà, làm vườn, nghiên cứu chữ nho và sách thuốc.  


Cuối 1939, làm thư ký Thuế quan [[Hà Nội]], sau đó làm Thư ký cho một hãng thầu khoán ở Sơn Tây, ở Phủ Diễn, Tân Ấp rồi sang [[Lào]] (1940 – 1943).
Tháng 4 năm 1945, Tỉnh ủy Nghệ An phái đồng chí Nguyễn Đức Tịnh về liên lạc, giao cho ông tổ chức Mặt trận Việt Minh và Đảng bộ huyện Nghi Lộc. Ông đã liên hệ với các đồng chí Nguyễn Trương Khoát, Hoàng Đan (sau này là Thiếu tướng, Phó giám đốc Học viện Quốc phòng, Cục trưởng Cục Khoa học Quân sự - Bộ Quốc phòng), Trần Văn Bành (sau này là Cục trưởng Cục Đối ngoại – Bộ Quốc phòng), tổ chức Huyện ủy lâm thời Nghi Lộc, và tổ chức phát triển Mặt trận Việt Minh huyện Nghi Lộc.


Năm 1943, trở về quê nhà, làm vườn, nghiên cứu chữ nho và sách thuốc chờ thời cơ tiếp tục hoạt động cách mạng, phục vụ Đảng.
Tổng khởi nghĩa [[Cách mạng tháng Tám, 1945|Cách mạng tháng Tám 1945]], ông phụ trách Ủy viên Quân sự cướp chính quyền huyện Nghi Lộc. Sau đó ông tham gia Huyện ủy, đồng thời là Ủy viên Quân sự và Ủy viên Công an trong Ủy ban nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Tháng 4 năm 1945, Tỉnh ủy [[Nghệ An]] phái đồng chí Nguyễn Đức Tịnh về liên lạc, giao cho ông tổ chức [[Việt Minh|Mặt trận Việt Minh]] và Đảng bộ huyện [[Nghi Lộc]]. Ông đã liên hệ với các đồng chí Nguyễn Trương Khoát, [[Hoàng Đan]] (sau này là Thiếu tướng, Phó giám đốc [[Học viện Quốc phòng (Việt Nam)|Học viện Quốc phòng]], Cục trưởng [[Cục Khoa học Quân sự (Việt Nam)|Cục Khoa học Quân sự]] - [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng]]), Trần Văn Bành (sau này là Cục trưởng [[Cục Đối ngoại, Quân đội nhân dân Việt Nam|Cục Đối ngoại]] – [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng]]), tổ chức Huyện ủy lâm thời [[Nghi Lộc]], và tổ chức phát triển [[Việt Minh|Mặt trận Việt Minh]] huyện [[Nghi Lộc]].

Tổng khởi nghĩa [[Cách mạng tháng Tám, 1945|Cách mạng tháng Tám 1945]], ông phụ trách Ủy viên Quân sự cướp chính quyền huyện [[Nghi Lộc]]. Sau đó ông tham gia Huyện ủy, đồng thời là Ủy viên Quân sự và Ủy viên Công an trong Ủy ban nhân dân huyện [[Nghi Lộc]], tỉnh [[Nghệ An]].


== Tham gia quân đội trong kháng chiến chống Pháp ==
== Tham gia quân đội trong kháng chiến chống Pháp ==


Tháng 3 năm 1946, Tỉnh ủy biệt phái ông sang Quân đội, giúp việc cho ông Chu Văn Biên - Chủ nhiệm Tham mưu Khu 4. Từ 8 năm 1946 đến tháng 8 năm 1949 ông được chuyển sang Phòng chính trị làm Trưởng ban Văn hóa (sau đổi là Ban Tuyên truyền Giáo dục), rồi làm Trưởng phòng Chính trị Khu 4, đồng thời được chỉ định vào Quân khu ủy Khu 4.
Tháng 3 năm 1946, Tỉnh ủy biệt phái ông sang Quân đội, giúp việc cho ông [[Chu Văn Biên]] - Chủ nhiệm Tham mưu Khu 4. Từ năm 1946 đến tháng 8 năm 1949, ông được chuyển sang Phòng chính trị làm Trưởng ban Văn hóa (sau đổi là Ban Tuyên truyền Giáo dục), rồi làm Trưởng phòng Chính trị Khu 4, đồng thời được chỉ định vào Quân khu ủy Khu 4.


Trong thời gian công tác lại Khu 4 (sau này đổi thành Liên khu 4), ông đã lần lượt đảm nhiệm các công tác:
Trong thời gian công tác lại Khu 4 (sau này đổi thành Liên khu 4), ông đã lần lượt đảm nhiệm các công tác:


Chính trị ủy viên (nay gọi là Chính ủy) Phân khu Bình Trị Thiên<ref>{{Chú thích sách|title=Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập1}}</ref>.
Chính trị ủy viên (nay gọi là Chính ủy) Phân khu Bình Trị Thiên <ref>{{Chú thích sách|title=Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập1}}</ref>.






Chính ủy Trung đoàn 9 - Liên khu 4 (sau này thuộc Sư đoàn 304), Chính ủy Trung đoàn 101 - Liên khu 4 (sau này thuộc Sư đoàn 325), Trưởng phòng Chính trị Đại đoàn 304 (nay là Sư đoàn 304).
Chính ủy Trung đoàn 9 - Liên khu 4 (sau này thuộc Sư đoàn 304), Chính ủy Trung đoàn 101 - Liên khu 4 (sau này thuộc Sư đoàn 325), Trưởng phòng Chính trị Đại đoàn 304 (nay là Sư đoàn 304).


Năm 1951, Trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (tiền thân của [[Học viện Chính trị (Quân đội nhân dân Việt Nam)|Học viện Chính trị]] ngày nay) ra đời. Ông được cử làm Phó Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban Giáo dục, rồi Phó Giám đốc nhà trường. <ref>{{Chú thích sách|title=70 năm Học viện Chính trị (1951-2021)}}</ref><ref name=":0" />
[[Tập tin:Liên khu 4.jpg|nhỏ|Ông Lữ Giang, Ông Nguyễn Sơn Tư lệnh liên khu Bốn và các cán bộ liên khu năm 1948-1949 - Ảnh do gia đình cung cấp]]

Năm 1951 Trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (tiền thân của Học viện Chính trị ngày nay) ra đời. Ông được cử làm Phó Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban Giáo dục, rồi Phó Giám đốc nhà trường<ref>{{Chú thích sách|title=70 năm Học viện Chính trị (1951-2021)}}</ref>.


== Công tác tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ==
== Công tác tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ==


Bến đỗ cuối cùng của ông là nhiều năm gắn với Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân từ Phụ trách Giám đốc Nhà xuất bản, Phó Giám đốc rồi Giám đốc – Tổng biên tập (1960 – 1982).
Bến đỗ cuối cùng của ông là gắn bó nhiều năm với [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]]. Từ Phụ trách Giám đốc Nhà xuất bản, Phó Giám đốc rồi Giám đốc – Tổng biên tập (1960 – 1982). <ref name=":1" />


Tháng 5 năm 1960, [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng]] ra Quyết định số 457/QĐ tổ chức Hội đồng xuất bản của Bộ và đặt [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của [[Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam|Tổng cục Chính trị]].


Ông Lữ Giang được Bộ quyết định về phụ trách Giám đốc Nhà xuất bản, thay ông Lê Chưởng – Cục trưởng [[Cục Tuyên huấn, Quân đội nhân dân Việt Nam|Cục Tuyên huấn]] kiêm Giám đốc [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] từ 1955 đến 1960.


Khi [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng]] thành lập Cục Xuất bản Quân đội, ông được cử làm Cục phó Cục Xuất bản Quân đội, Phó Giám đốc – Tổng biên tập [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] (1962 – 1974). Đồng thời, ông làm Bí thư chi bộ [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] (1962 – 1965); Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Cục Xuất bản, [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] (1966 - 1974)
Tháng 5 năm 1960, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 457/QĐ tổ chức Hội đồng xuất bản của Bộ và đặt Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục Chính trị.


Do đã lập được những thành tích xuất sắc trên mặt trận văn hóa, tư tưởng và trong nhiệm vụ xuất bản sách phục vụ bộ đội và nhân dân ở chặng đường đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 3 tháng 6 năm 1969, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân trong thời gian ông làm Bí thư Đảng bộ, Phó Giám đốc – Tổng biên tập đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 86/LCT, tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. <ref name=":0" />
Ông Lữ Giang được Bộ quyết định về phụ trách Giám đốc Nhà xuất bản, thay ông Lê Chưởng – Cục trưởng Cục Tuyên huấn kiêm Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân từ 1955 đến 1960.


Tháng 4 năm 1979, [[Đại tá]] Lữ Giang được [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng]] điều trở về làm Giám đốc [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]]. Thời gian này, trách nhiệm và quyền hạn của [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] do [[Đại tá]] Lữ Giang đứng đầu được [[Bộ Quốc phòng (Việt Nam)|Bộ Quốc phòng]] giao kiêm chức năng quản lý công tác xuất bản và in toàn quân, trực tiếp quản lý hai nhà in của Bộ (Nhà in Quân đội 1 ở [[Hà Nội]] và Nhà in Quân đội 2 ở [[Thành phố Hồ Chí Minh]]). <ref>{{Chú thích sách|title=70 năm Nxb QDND (1950-2020)}}</ref>
Khi Bộ Quốc phòng thành lập Cục Xuất bản Quân đội, ông được cử làm Cục phó Cục Xuất bản Quân đội, Phó Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1962 – 1974). Đồng thời, ông làm Bí thư chi bộ Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1962 – 1965); Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Cục Xuất bản Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1966 - 1974)


Năm 1982, Đại tá Lữ Giang nghỉ hưu.
Do đã lập được những thành tích xuất sắc trên mặt trận văn hóa, tư tưởng và trong nhiệm vụ xuất bản sách phục vụ bộ đội và nhân dân ở chặng đường đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 3 tháng 6 năm 1969, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân trong thời gian ông làm Bí thư Đảng bộ, Phó Giám đốc – Tổng biên tập đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 86/LCT, tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.


Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1987. <ref name=":1" />
Tháng 4 năm 1979, Đại tá Lữ Giang được Bộ Quốc phòng điều trở về làm Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Thời gian này, trách nhiệm và quyền hạn của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân do Đại táLữ Giang đứng đầu được Bộ Quốc phòng giao kiêm chức năng quản lý công tác xuất bản và in toàn quân, trực tiếp quản lý hai nhà in của Bộ (Nhà in Quân đội 1 ở Thành phố Hà Nội và Nhà in Quân đội 2 ở Thành phố Hồ Chí Minh)<ref>{{Chú thích sách|title=70 năm Nxb QDND (1950-2020)}}</ref>.


== Vinh danh ==
Năm 1982 Đại tá Lữ Giang nghỉ hưu.


[[Đại tá]] Lữ Giang đã được [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng]] và [[Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Nhà nước]] tặng thưởng:
Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1987.


- [[Huân chương Độc lập]] hạng nhì; <ref name=":0" />
== Vinh Danh ==


- [[Huân chương Chiến thắng]] hạng nhì; <ref name=":0" />
Đại tá Lữ Giang đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng:


Huân chương Độc lập hạng nhì;
- [[Huân chương Quân công]] hạng nhì; <ref name=":0" />


- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng <ref name=":0" />....
Huân chương Chiến thắng hạng nhì;


== Đánh giá ==
Huân chương Quân công hạng nhì,


Thiếu tướng [[Trần Văn Phác]] (1926 – 2012), nguyên Phó Chủ nhiệm [[Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam|Tổng cục Chính trị]], Bộ trưởng [[Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam)|Bộ Văn hóa]], nhớ lại: “Anh Lữ Giang có nhiều đóng góp giữ cho con thuyền xuất bản quân đội, phát triển thuận buồm xuôi gió… Anh thạo tiếng [[Pháp]] nên có thuận lợi trong việc nghiên cứu sách nước ngoài. Anh lại tự học giỏi tiếng [[Trung Quốc]], thường đàm đạo trôi chảy với các cố vấn [[Trung Quốc]] không cần phiên dịch. Anh em thường gọi đùa anh là "đồ nghệ", anh nhíu đôi lông mày rậm và chỉ cười”. <ref name=":1" />
Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng…


Trong ký ức của Thiếu tướng [[Trần Văn Phác]], Đại tá Lữ Giang là người "rất thận trọng trong việc thông qua bản thảo". <ref name=":1" />
== Đánh giá ==


Nhà văn Vũ Sắc, biên tập viên của [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] đã ghi lại trong hồi ký làm nghề của mình những kỷ niệm xúc động với Giám đốc, Tổng biên tập Lữ Giang. Một trong số đó là lời nhận xét "thiếu tính Đảng", phải sửa lại mà ông Lữ Giang dành cho bản thảo truyện "Dứt điểm" của tác giả Nguyễn Kiệp (Lâm Phương), một tác phẩm kể về Anh hùng Trần Ngọc Thái, quân nhân sửa chữa tàu hải quân. Biên tập viên nhà xuất bản tìm gặp tác giả thì cũng là lúc Nguyễn Kiệp chuẩn bị lên đường đi B vào chiến trường miền Nam nên phó thác tất cả cho biên tập viên. Không rũ rối bản thảo ra được thì chữa “giậm” vào. Với tài nghệ "bếp núc" biên tập của mình, nhà văn Vũ Sắc đã bổ sung “tính Đảng” cho bản thảo hết sức “linh hoạt”. <ref name=":1" />
Thiếu tướng Trần Văn Phác (1926 – 2012), nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, nhớ lại: “Anh Lữ Giang có nhiều đóng góp giữ cho con thuyền xuất bản quân đội, phát triển thuận buồm xuôi gió…. Anh thạo tiếng Pháp nên có thuận lợi trong việc nghiên cứu sách nước ngoài. Anh lại tự học giỏi tiếng Trung Quốc, thường đàm đạo trôi chảy với các cố vấn Trung Quốc không cần phiên dịch. Anh em thường gọi đùa anh là "đồ nghệ", anh nhíu đôi lông mày rậm và chỉ cười”


Khi xem lại bản thảo “Dứt điểm” đã được biên tập lại thì Đại tá Lữ Giang nhận thấy Đảng có mặt khắp mọi lúc, mọi nơi, “Đảng lãnh đạo toàn diện”. Song ông cũng tủm tỉm cười và nói với biên tập viên Vũ Sắc: “Sao lần này lại “lắm Đảng” thế! Chỉ nên để một số chỗ thôi", rồi lật bản thảo chỉ cho nhà văn Vũ Sắc thấy: "... chỗ này... chỗ này... còn thì bớt đi...”. <ref name=":1" />
Nhà thơ Tạ Hữu Yên (1927 – 2013) trong thời gian làm biên tập viên Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân đã ghi lại kỷ niệm về tập trường ca “Đường tới thành phố” của tác giả Hữu Thỉnh mà ông gọi là có "Số phận đặc biệt". Khi tác phẩm in xong, Giám đốc Lữ Giang chưa cho phát hành, sách vẫn nằm im trong kho Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hơn một tháng sau - khoảng tháng 5 năm 1979 - tập trường ca mới ra mắt bạn đọc. Lý do là Giám đốc Lữ Giang đọc đến đoạn Hữu Thỉnh viết về người lính bị địch chặt cụt đầu, dòng dây từ máy bay xuống:


Trong thời gian làm biên tập viên [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]], nhà thơ [[Tạ Hữu Yên]] (1927 - 2013) đã ghi lại kỷ niệm về tập trường ca "[https://www.thivien.net/Hữu-Thỉnh/Đường-tới-thành-phố-1979/group-sfmhVlf4_IkoZCtK-3Bc5g Đường tới thành phố]" của tác giả [[Hữu Thỉnh]] mà ông gọi là có "số phận đặc biệt". Khi tác phẩm in xong, Giám đốc Lữ Giang chưa cho phát hành, sách vẫn nằm im trong kho [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội nhân dân]]. Hơn một tháng sau, khoảng tháng 5 năm 1979, tập trường ca mới ra mắt bạn đọc. Lý do là Giám đốc Lữ Giang đọc đến đoạn [[Hữu Thỉnh]] viết về người lính bị địch chặt cụt đầu, dòng dây từ máy bay xuống:
"... ''Nó dòng xuống xác một người đồng chí''

"[...] ''Nó dòng xuống xác một người đồng chí''


''Bị chặt đầu''
''Bị chặt đầu''
Dòng 119: Dòng 117:
''Kẻ thù cách một gang thôi''
''Kẻ thù cách một gang thôi''


''Phải giằng súng lại. Cắn môi tìm đường''”
''Phải giằng súng lại. Cắn môi tìm đường''”.


''(Trích từ "[https://www.thivien.net/Hữu-Thỉnh/Một-lần-lỡ-hẹn/poem-PpsayFkTB1qQ6tJzqEBMuA Một lần lỡ hẹn]", chương 2: Tư lệnh)''
Ông nói với biên tập viên Tạ Hữu Yên: “Phải công nhận là tác giả viết hay nhưng nó "ghê" quá. Tôi cân nhắc mãi, sau rồi thấy viết thế là mới, mà mình không giấu giếm cái ác liệt của chiến tranh"


Ông nói với biên tập viên [[Tạ Hữu Yên]]: “Phải công nhận là tác giả viết hay nhưng nó "ghê" quá. Tôi cân nhắc mãi, sau rồi thấy viết thế là mới, mà mình không giấu giếm cái ác liệt của chiến tranh". <ref name=":1" />
== Tác phẩm ==


Còn về Trần Thị Minh Châu, nữ Cục trưởng [[Cục Xuất bản, In và Phát hành (Việt Nam)|Cục Xuất bản]] đầu tiên và cũng là người học trò của Đại tá Lữ Giang, bà đã chia sẻ những kỷ niệm sâu sắc về người thầy của mình. Vào những năm 1934 - 1935, gia đình Trần Thị Nguyệt Lãng (tên khai sinh là Trần Thị Minh Châu) rất nghèo, song cô lại rất thông minh nên đã đỗ học năm thứ nhất. Hầu hết giáo viên trong trường khi ấy đều dạy bằng tiếng Pháp, nhưng đặc biệt hơn hẳn là một thầy giáo người [[Nghệ An]], hiền lành, cục mịch, "thường mặc áo dài the, đi dép trong khi các thầy khác hầu hết đều mặc Âu phục." <ref name=":1" /> Đó chính là [[Đại tá]] Lữ Giang.
"Quan điểm và phương pháp học tập" - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1952)


Nhiều năm sau, bà có viết một bài được đăng trong tạp chí Xưa và Nay, kể về thầy giáo Nguyễn Trương Bờn mà sau này là Giám đốc [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] Lữ Giang. <ref>{{chú thích tạp chí|last1=Trần Thị|first1=Minh Châu|date=tháng 11, năm 2004|title=Nhớ về thầy giáo tôi|url=https://xuanay.vn/bao-giay/tap-chi-xua-va-nay-so-223-11-2004/|journal=Xưa và Nay|issue=223|page=14}}</ref>

== Tác phẩm ==


''Quan điểm và phương pháp học tập'', [[Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (Việt Nam)|Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân]] (1952). <ref name=":0" />
Đây là tài liệu tham khảo được biên soạn dựa trên quá trình tổng kết, rút kinh nghiệm của khóa học đầu tiên Trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (tiền thân của Học viện Chính trị ngày nay). Cuốn sách là công trình nghiên cứu khoa học giáo dục đầu tiên của nhà trường, được đánh giá là tuy còn giản đơn nhưng rất cần thiết để thống nhất trong thực hành phương châm, phương pháp huấn luyện, giáo dục lúc đó.


Đây là tài liệu tham khảo được biên soạn dựa trên quá trình tổng kết, rút kinh nghiệm của khóa học đầu tiên Trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (tiền thân của [[Học viện Chính trị (Quân đội nhân dân Việt Nam)|Học viện Chính trị]] ngày nay). Cuốn sách là công trình nghiên cứu khoa học giáo dục đầu tiên của nhà trường, được đánh giá là tuy còn giản đơn nhưng rất cần thiết để thống nhất trong thực hành phương châm, phương pháp huấn luyện, giáo dục lúc đó.
== Nguồn ==
== Tham khảo ==


[[Thể loại:Sinh năm 1918]]
{{Tham khảo|30em}}
[[Thể loại:Mất năm 1987]]
'''6. Tạp chí Xưa và Nay số 223 tháng 11/2004. Bài: Nhớ về Thày giáo của tôi -Trần Thị Minh Châu'''
[[Thể loại:Người Nghệ An]]
[[Thể loại:Nhà giáo Việt Nam thời Pháp thuộc]]
[[Thể loại:Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam]]
[[Thể loại:Tổng biên tập Việt Nam]]
[[Thể loại:Huân chương Chiến công hạng Nhất]]
[[Thể loại:Huân chương Độc lập hạng Nhì]]
[[Thể loại:Huân chương Chiến thắng hạng Nhì]]
[[Thể loại:Huân chương Quân công hạng Nhì]]
[[Thể loại:Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam]]

Bản mới nhất lúc 12:35, ngày 30 tháng 12 năm 2023

Lữ Giang
Ông Lữ Giang - Ảnh do Nhà xuất bản Quân đội cung cấp
Tên khai sinhNguyễn Trương Bờn
SinhXã Nghi Xá, huyện Nghi Lộc, Nghệ An
Mất1987, Hồ Chí Minh
Quốc tịch Việt Nam
Quân hàm

Lữ Giang (1918 - 1987), tên thật là Nguyễn Trương Bờn, quê ở xã Nghi Xá, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. [1] Ông là cán bộ quân sự quân hàm Đại tá của Quân đội Nhân dân Việt Nam [1]. Vào năm 1948, ông đổi tên thành Lữ Giang nhằm thâm nhập vào vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên và hoạt động với vai trò Chính uỷ Phân khu Bình Trị Thiên. [2]

Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1936 [2] và tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ở nhiều mặt trận khác nhau: Quân sự - Chính trị, Tư tưởng - Văn hoá.

Thân thế và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh năm 1918, quê xã Thượng Xá (nay là xã Nghi Xá), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. [1]

Cha ông là Nguyễn Trương Diễm, là một nhà Nho yêu nước, đã đỗ Tú tài Hán học trường thi Nghệ An. Cha ông được bà con trong vùng gọi là cụ Hàn Diễm. [2][1]

Gia đình ông có truyền thống yêu nước, các anh trai đều tham gia hoạt động cách mạng từ sớm, có người là sang lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. [2]

Anh cả ông là Nguyễn Trương Nhĩ. [2]

Anh trai thứ hai là Nguyễn Trương Thúy (còn được gọi là Nguyễn Trường Thuý), là người sáng lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và là Bí thư Huyện ủy Xuân Trường. Ông đã qua đời vào năm 1955. Để ghi nhớ công lao của ông, ở huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định đã có một ngôi trường THPT mang tên Nguyễn Trương Thuý. [1][2]

Anh trai thứ ba là Nguyễn Trương Khoát, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). [2]

Hồi còn nhỏ, Nguyễn Trương Bờn ở với cha mẹ. Năm lên 5, 6 tuổi học chữ Nho với cha, lên 7 tuổi theo anh cả Nguyễn Trương Nhĩ đi học ở Thanh (chợ Đu, Thiệu Hóa). Từ 8 tuổi đến 13 tuổi, theo anh thứ hai Nguyễn Trương Thúy đi học ở Nam Định (Năng Tĩnh, Lạc Quần, Xuân Trường, Hải Hậu) [3].

Năm 15 tuổi, ông thi đỗ vào trường Trung học ở Vinh.

Hè năm 1936, được chi bộ xã Thượng Xá (nay là xã Nghi Xá) kết nạp vào Đảng. Người giới thiệu là Nguyễn Trương Khoát và Nguyễn Trương Lâm (sau này là bí thư chi bộ trường Đại học Thương Nghiệp nhiều năm). Người công nhận là Nguyễn Đức Dương, đại biểu Huyện ủy Nghi Lộc (sau này là Khu ủy viên khu 5, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê).

Vào năm 1937, ông thi đỗ Trung học. Cuối năm đó, Nguyễn Trương Bờn ra Hà Nội và học trường Trung học Tư thục Thăng Long dưới sự dạy dỗ của thầy Nguyễn Bá Húc - Hiệu trưởng, giáo viên dạy toán; Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai, Phạm Huy Thông,... [1]

Đầu năm 1938, ông đi dạy tư ở trường tư thục Đông Hải, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Thời gian dạy học tại đây, ông đã truyền bá tư tưởng cách mạng và yêu nước cho học trò, tiếp tục hoạt động cách mạng. Một trong những người học trò trong thời gian dạy học tại trường Đông Hải của ông sau này là Cục trưởng Cục Xuất bản (Bộ Văn hóa) - bà Trần Thị Minh Châu. [2]

Sau 6 tháng, về dạy ở Vinh đồng thời trông coi hiệu sách Hồng Lam của Đảng. Thời gian này, ông thường đi Hà Nội, giao thiệp với các ông Phạm Văn Hảo (Hiệu sách Đồng Xuân) [2], Đào Duy Kỳ, Trịnh Hoài Đức, Trần Đình Tri.

Hiệu sách bị mật thám đóng cửa, thầy giáo Nguyễn Trương Bờn bị mật thám Pháp theo dõi. [2] Chính vì vậy mà ông trở về quê nhà hoạt động. Một thời gian sau, đầu năm 1939, ông đi dạy trường Chung Anh ở Đô Lương, Nghệ An. [1] Thời gian dạy học ở đây chỉ 6 tháng song được tín nhiệm, thường tuyên tuyền cho học sinh tinh thần yêu nước, căm ghét thực dân đế quốc áp bức bóc lột.

Cuối 1939, làm thư ký Thuế quan Hà Nội, sau đó làm Thư ký cho một hãng thầu khoán ở Sơn Tây, ở Phủ Diễn, Tân Ấp rồi sang Lào (1940 – 1943).

Năm 1943, trở về quê nhà, làm vườn, nghiên cứu chữ nho và sách thuốc chờ thời cơ tiếp tục hoạt động cách mạng, phục vụ Đảng.

Tháng 4 năm 1945, Tỉnh ủy Nghệ An phái đồng chí Nguyễn Đức Tịnh về liên lạc, giao cho ông tổ chức Mặt trận Việt Minh và Đảng bộ huyện Nghi Lộc. Ông đã liên hệ với các đồng chí Nguyễn Trương Khoát, Hoàng Đan (sau này là Thiếu tướng, Phó giám đốc Học viện Quốc phòng, Cục trưởng Cục Khoa học Quân sự - Bộ Quốc phòng), Trần Văn Bành (sau này là Cục trưởng Cục Đối ngoạiBộ Quốc phòng), tổ chức Huyện ủy lâm thời Nghi Lộc, và tổ chức phát triển Mặt trận Việt Minh huyện Nghi Lộc.

Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945, ông phụ trách Ủy viên Quân sự cướp chính quyền huyện Nghi Lộc. Sau đó ông tham gia Huyện ủy, đồng thời là Ủy viên Quân sự và Ủy viên Công an trong Ủy ban nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Tham gia quân đội trong kháng chiến chống Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 3 năm 1946, Tỉnh ủy biệt phái ông sang Quân đội, giúp việc cho ông Chu Văn Biên - Chủ nhiệm Tham mưu Khu 4. Từ năm 1946 đến tháng 8 năm 1949, ông được chuyển sang Phòng chính trị làm Trưởng ban Văn hóa (sau đổi là Ban Tuyên truyền Giáo dục), rồi làm Trưởng phòng Chính trị Khu 4, đồng thời được chỉ định vào Quân khu ủy Khu 4.

Trong thời gian công tác lại Khu 4 (sau này đổi thành Liên khu 4), ông đã lần lượt đảm nhiệm các công tác:

Chính trị ủy viên (nay gọi là Chính ủy) Phân khu Bình Trị Thiên [4].

Chính ủy Trung đoàn 9 - Liên khu 4 (sau này thuộc Sư đoàn 304), Chính ủy Trung đoàn 101 - Liên khu 4 (sau này thuộc Sư đoàn 325), Trưởng phòng Chính trị Đại đoàn 304 (nay là Sư đoàn 304).

Năm 1951, Trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (tiền thân của Học viện Chính trị ngày nay) ra đời. Ông được cử làm Phó Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban Giáo dục, rồi Phó Giám đốc nhà trường. [5][1]

Công tác tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân[sửa | sửa mã nguồn]

Bến đỗ cuối cùng của ông là gắn bó nhiều năm với Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Từ Phụ trách Giám đốc Nhà xuất bản, Phó Giám đốc rồi Giám đốc – Tổng biên tập (1960 – 1982). [2]

Tháng 5 năm 1960, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 457/QĐ tổ chức Hội đồng xuất bản của Bộ và đặt Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục Chính trị.

Ông Lữ Giang được Bộ quyết định về phụ trách Giám đốc Nhà xuất bản, thay ông Lê Chưởng – Cục trưởng Cục Tuyên huấn kiêm Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân từ 1955 đến 1960.

Khi Bộ Quốc phòng thành lập Cục Xuất bản Quân đội, ông được cử làm Cục phó Cục Xuất bản Quân đội, Phó Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1962 – 1974). Đồng thời, ông làm Bí thư chi bộ Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1962 – 1965); Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ Cục Xuất bản, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1966 - 1974)

Do đã lập được những thành tích xuất sắc trên mặt trận văn hóa, tư tưởng và trong nhiệm vụ xuất bản sách phục vụ bộ đội và nhân dân ở chặng đường đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 3 tháng 6 năm 1969, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân trong thời gian ông làm Bí thư Đảng bộ, Phó Giám đốc – Tổng biên tập đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 86/LCT, tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. [1]

Tháng 4 năm 1979, Đại tá Lữ Giang được Bộ Quốc phòng điều trở về làm Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Thời gian này, trách nhiệm và quyền hạn của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân do Đại tá Lữ Giang đứng đầu được Bộ Quốc phòng giao kiêm chức năng quản lý công tác xuất bản và in toàn quân, trực tiếp quản lý hai nhà in của Bộ (Nhà in Quân đội 1 ở Hà Nội và Nhà in Quân đội 2 ở Thành phố Hồ Chí Minh). [6]

Năm 1982, Đại tá Lữ Giang nghỉ hưu.

Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1987. [2]

Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

Đại tá Lữ Giang đã được ĐảngNhà nước tặng thưởng:

- Huân chương Độc lập hạng nhì; [1]

- Huân chương Chiến thắng hạng nhì; [1]

- Huân chương Quân công hạng nhì; [1]

- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng [1]....

Đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếu tướng Trần Văn Phác (1926 – 2012), nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, nhớ lại: “Anh Lữ Giang có nhiều đóng góp giữ cho con thuyền xuất bản quân đội, phát triển thuận buồm xuôi gió… Anh thạo tiếng Pháp nên có thuận lợi trong việc nghiên cứu sách nước ngoài. Anh lại tự học giỏi tiếng Trung Quốc, thường đàm đạo trôi chảy với các cố vấn Trung Quốc không cần phiên dịch. Anh em thường gọi đùa anh là "đồ nghệ", anh nhíu đôi lông mày rậm và chỉ cười”. [2]

Trong ký ức của Thiếu tướng Trần Văn Phác, Đại tá Lữ Giang là người "rất thận trọng trong việc thông qua bản thảo". [2]

Nhà văn Vũ Sắc, biên tập viên của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân đã ghi lại trong hồi ký làm nghề của mình những kỷ niệm xúc động với Giám đốc, Tổng biên tập Lữ Giang. Một trong số đó là lời nhận xét "thiếu tính Đảng", phải sửa lại mà ông Lữ Giang dành cho bản thảo truyện "Dứt điểm" của tác giả Nguyễn Kiệp (Lâm Phương), một tác phẩm kể về Anh hùng Trần Ngọc Thái, quân nhân sửa chữa tàu hải quân. Biên tập viên nhà xuất bản tìm gặp tác giả thì cũng là lúc Nguyễn Kiệp chuẩn bị lên đường đi B vào chiến trường miền Nam nên phó thác tất cả cho biên tập viên. Không rũ rối bản thảo ra được thì chữa “giậm” vào. Với tài nghệ "bếp núc" biên tập của mình, nhà văn Vũ Sắc đã bổ sung “tính Đảng” cho bản thảo hết sức “linh hoạt”. [2]

Khi xem lại bản thảo “Dứt điểm” đã được biên tập lại thì Đại tá Lữ Giang nhận thấy Đảng có mặt khắp mọi lúc, mọi nơi, “Đảng lãnh đạo toàn diện”. Song ông cũng tủm tỉm cười và nói với biên tập viên Vũ Sắc: “Sao lần này lại “lắm Đảng” thế! Chỉ nên để một số chỗ thôi", rồi lật bản thảo chỉ cho nhà văn Vũ Sắc thấy: "... chỗ này... chỗ này... còn thì bớt đi...”. [2]

Trong thời gian làm biên tập viên Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, nhà thơ Tạ Hữu Yên (1927 - 2013) đã ghi lại kỷ niệm về tập trường ca "Đường tới thành phố" của tác giả Hữu Thỉnh mà ông gọi là có "số phận đặc biệt". Khi tác phẩm in xong, Giám đốc Lữ Giang chưa cho phát hành, sách vẫn nằm im trong kho Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hơn một tháng sau, khoảng tháng 5 năm 1979, tập trường ca mới ra mắt bạn đọc. Lý do là Giám đốc Lữ Giang đọc đến đoạn Hữu Thỉnh viết về người lính bị địch chặt cụt đầu, dòng dây từ máy bay xuống:

"[...] Nó dòng xuống xác một người đồng chí

Bị chặt đầu

Chân còn dép, chân không

Máu anh bỏng xuống núi ngàn

Đời anh treo một dấu chấm than giữa đời

Kẻ thù cách một gang thôi

Phải giằng súng lại. Cắn môi tìm đường”.

(Trích từ "Một lần lỡ hẹn", chương 2: Tư lệnh)

Ông nói với biên tập viên Tạ Hữu Yên: “Phải công nhận là tác giả viết hay nhưng nó "ghê" quá. Tôi cân nhắc mãi, sau rồi thấy viết thế là mới, mà mình không giấu giếm cái ác liệt của chiến tranh". [2]

Còn về Trần Thị Minh Châu, nữ Cục trưởng Cục Xuất bản đầu tiên và cũng là người học trò của Đại tá Lữ Giang, bà đã chia sẻ những kỷ niệm sâu sắc về người thầy của mình. Vào những năm 1934 - 1935, gia đình Trần Thị Nguyệt Lãng (tên khai sinh là Trần Thị Minh Châu) rất nghèo, song cô lại rất thông minh nên đã đỗ học năm thứ nhất. Hầu hết giáo viên trong trường khi ấy đều dạy bằng tiếng Pháp, nhưng đặc biệt hơn hẳn là một thầy giáo người Nghệ An, hiền lành, cục mịch, "thường mặc áo dài the, đi dép trong khi các thầy khác hầu hết đều mặc Âu phục." [2] Đó chính là Đại tá Lữ Giang.

Nhiều năm sau, bà có viết một bài được đăng trong tạp chí Xưa và Nay, kể về thầy giáo Nguyễn Trương Bờn mà sau này là Giám đốc Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Lữ Giang. [7]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Quan điểm và phương pháp học tập, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (1952). [1]

Đây là tài liệu tham khảo được biên soạn dựa trên quá trình tổng kết, rút kinh nghiệm của khóa học đầu tiên Trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam (tiền thân của Học viện Chính trị ngày nay). Cuốn sách là công trình nghiên cứu khoa học giáo dục đầu tiên của nhà trường, được đánh giá là tuy còn giản đơn nhưng rất cần thiết để thống nhất trong thực hành phương châm, phương pháp huấn luyện, giáo dục lúc đó.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n “Đại tá Lữ Giang-Người thầy đầu tiên”. Báo Quân đội nhân dân. ngày 19 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Kiều Mai Sơn. “Đại tá Lữ Giang - Nguyễn Trương Bờn: Nhà giáo làm xuất bản”.
  3. ^ Lý lịch tự thuật của Đại tá Lữ Giang lưu tại gia đình.
  4. ^ Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập1.
  5. ^ 70 năm Học viện Chính trị (1951-2021).
  6. ^ 70 năm Nxb QDND (1950-2020).
  7. ^ Trần Thị, Minh Châu (tháng 11 năm 2004). “Nhớ về thầy giáo tôi”. Xưa và Nay (223): 14.