Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thảm sát Huế Tết Mậu Thân”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 82: Dòng 82:
:"Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ ... khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh - với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế..."
:"Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ ... khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh - với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế..."


==Clifford, James O==
===Clifford, James O===
Sau khi Việt Cộng chiếm được thành phố Huế tháng 1 năm 1968, họ bắt đầu một cuộc thảm sát có hệ thống dân thường. (Clifford, James O. "Forgotten massacre at hue." Vietnam, Feb, 2002, Vol.14(5), p.26(6))
Sau khi Việt Cộng chiếm được thành phố Huế tháng 1 năm 1968, họ bắt đầu một cuộc thảm sát có hệ thống dân thường. (Clifford, James O. "Forgotten massacre at hue." Vietnam, Feb, 2002, Vol.14(5), p.26(6))



Phiên bản lúc 00:56, ngày 4 tháng 3 năm 2013

Cải táng các thi hài khai quật trong các hố chôn tập thể sau trận Tết Mậu Thân

Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh: Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong Chiến tranh Việt Nam khi phát hiện nhiều ngôi mộ tập thể chôn tử thi trong chiến trận Huế. Việc phát hiện hố chôn xảy ra sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, đóng ở Huế một tháng. Sau đó bị triệt thoái trước sự phản công của Quân lực Việt Nam Cộng hòaQuân đội Hoa Kỳ.[1]

Một số nhà chức trách MỹViệt Nam Cộng hòa cùng một số nhà báo coi hố chôn tập thể là một trong những chứng cứ để kết luận Quân giải phóng miền Nam đã thực hiện cuộc thanh toán quy mô lớn ở Huế và vùng phụ cận trong 4 tuần đóng quân. Có nguồn cho rằng các vụ giết người này là có chủ trương nhằm thanh trừng cả một tầng lớp trong xã hội miền Nam. Nguồn khác, trong đó có nhóm phản chiến thì khẳng định rằng số lượng và hoàn cảnh của những người bị giết đã bị khuếch đại và ngụy tạo để phục vụ mục đích tuyên truyền trong chiến tranh. Nguồn từ phía quân Giải phóng thì ghi nhận họ đã chôn nhiều thường dân chết do hỏa lực hạng nặng của Mỹ cùng với binh sĩ tử trận của chính họ.[2][3][4]

Bối cảnh

Sáng sớm ngày 31 tháng 1 năm 1968, trong dịp Tết Nguyên Đán, Quân đội Nhân dân Việt NamQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam - trong đó có Sài Gòn và Huế. Sau các thành công quân sự ban đầu, họ bị đối phương áp đảo và đẩy lui khắp nơi, trừ Huế. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân tuy được xem là một thất bại chiến thuật nhưng lại là một chiến thắng có tầm vóc lớn về chiến lược.

Với mục đích giành giật chủ quyền tại Huế, trận chiến 28 ngày giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Hoa KỳQuân lực Việt Nam Cộng hòa đã diễn ra và kết quả là 40% thành phố bị tàn phá, 116.000 người mất nhà ở. Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chịu khoảng 4.400 lính thương vong, trong khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng tổn thất trên 4.000 quân. Cũng trong cuộc tái chiếm này, quân đội Mỹ đã sử dụng tối đa vũ khí hạng nặng như bom napalmsúng không giật cỡ lớn. Trong số 17.134 ngôi nhà tại Huế, 9.776 bị phá hủy hoàn toàn, 3169 bị hư hỏng nặng; số thường dân thiệt mạng theo ước tính đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa là 3.776 người; Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố họ đã chôn cất rất nhiều nạn nhân do bom đạn tại các khu mộ tập thể cùng với binh sĩ tử trận của chính họ[4].

Số liệu về các hố chôn tập thể

Sau sự kiện Tết Mậu Thân khoảng một tháng, một số lượng lớn các ngôi mộ tập thể của những người đã chết tại Huế đã dần được tìm thấy. Số liệu từ các nguồn khác nhau có sự không thống nhất.

Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike[5], lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:

"Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
  • Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
  • Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
  • Nạn nhân của những vụ giết tập thể:
1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
  809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
  428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969
  300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
  100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)"

Theo Gareth Porter[6], một học giả Mỹ, các ước lượng ban đầu của Bộ Di dân và An sinh Xã hội Việt Nam Cộng hòa, số dân thường thiệt mạng do giao tranh và bom pháo là 3.776, trên tổng số dân thường bị thương, chết hoặc mất tích là 6.700 người[7], chứ không phải các con số 944 và 7.600 do Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa ra[8]. (Các con số 944 và 7.600 này đã được Pike Douglas dùng trong thống kê của mình.)

Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter[6] viết:

"...tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này còn làm giảm tổng số hơn nữa."

Cũng theo Gareth Porter, Alje Vennema[9], một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngãi và đã tình cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đã được tuyên bố chính thức.

Các quan điểm

Có nhiều quan điểm trái ngược nhau về sự thật vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Theo hồi ký của Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì trong khi đóng quân tại Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân...) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận. Ông dẫn lời một người bạn rằng do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ.[10] Một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi nhận, họ đã "diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại uý, 1 trung uý, 20 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…" trong khi đóng quân ở Huế.[11]

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, người viết lời hiệu triệu kêu gọi nhân dân Huế nổi dậy, bị đối phương coi là 1 những người trực tiếp chỉ đạo của "vụ thảm sát". Tuy nhiên, ông khẳng định: trong thời gian diễn ra trận đánh, ông và các cán bộ khác trú tại Sở chỉ huy tiền phương tại phía tây Huế chứ không hề vào thành. Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân cũng khẳng định: Suốt thời gian chiến dịch diễn ra, Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn ở tại địa đạo Khe Trái trong vùng núi phía tây huyện Hương Trà chứ không hề bước chân về chiến trường Huế, tất cả những "thông tin" nói Hoàng Phủ Ngọc Tường làm việc này việc nọ ở Huế trong những ngày tết Mậu Thân 1968 đều là bịa đặt.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cho biết:

Không một quân đội nào dạy cho binh lính mình giết người dân cả. Dân là chỗ dựa của quân đội. "Nâng thuyền cũng dân, lật thuyền cũng dân" (Nguyễn Trãi). Hơn nữa tư tưởng chiến tranh của Đảng ta là "chiến tranh nhân dân", dựa vào dân mà chiến đấu. Trong chiến tranh khốc liệt, người chết do nhiều nguyên nhân: Hai bên bắn nhau, tên rơi đạn lạc. Những ngày Mậu Thân suốt tháng trời đó, máy bay Mỹ dội bom, quân đội Sài Gòn bắn pháo dữ dội suốt tháng trời khắp các nẻo đường. Quân Giải phóng cũng chống trả quyết liệt. Bom pháo, súng đạn đó không biết cách phân biệt "Việt Cộng" hay người dân, tất cả đều bị chìm trong khói lửa. Vì thế, không thể đổ việc nhiều người chết cho một bên nào được.
Không hiểu sao đến giờ vẫn có những kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào "vụ" Mậu Thân Huế. Đúng Mậu Thân đã trở thành một bi kịch đời tôi! Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu, thế thôi!".[2]

Trong cuộc phỏng vấn với đài PBS năm 1982, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: "Nói riêng về những người bị giết thì trong số đó tất nhiên thì có một số người do du kích, do quân đội cách mạng, phải thi hành bản án tử hình...còn một số trường hợp khác thì nhân dân đã căm thù quá lâu...đến khi cách mạng bùng lên, họ lấy lại cái thế của người mạnh, họ đi tìm những kẻ đó để trừ như trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống sẽ tiếp tục gây tội ác trong chiến tranh. Có một số đó, mặc dù chúng tôi chủ trương những người đã bắt và đầu hàng để hỏi khai thác thì sẽ cải tạo chứ không giết, nhưng hành động của nhân dân trong chiến tranh bùng nổ như vậy thì chính những người chỉ huy của cách mạng cũng không thể nào mà kiểm soát nổi họ, và họ đã có tự mình thi hành lấy bản án tử hình với kẻ thù quá nặng nề của mình."[12]

Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Thụy Khuê của đài RFI, ngày 12 tháng 7 năm 1997 được Tạp chí Hợp Lưu đăng lại trong số 36 tại trang 197 - 200, ngày 8/9/1997 ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói:

"Huế Mậu Thân đã xẩy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng. Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy."[13]

Lê Phong Lan

Đạo diễn Lê Phong Lan đã bỏ 10 năm để tìm kiếm, gặp gỡ phỏng vấn để làm 12 tập phim tài liệu về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Lý do quan trọng thôi thúc đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện bộ phim là sau khi trò chuyện với thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, ông nói: "Suốt một thời gian dài, đã có những thông tin sai về sự kiện Mậu Thân 1968. Trong khi chúng ta lại không hề lên tiếng"[3]

Bà đã gặp gỡ cả những người lính và cả những người chỉ huy ở cả hai chiến tuyến. Ở cấp chỉ huy, ở cấp lính, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Và với những gì tìm được, bà cho biết: “Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam. Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật. Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại của quân dân Việt Nam”.[14]

Trong phim Mậu Thân 1968, đoàn làm phim đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu - người chỉ huy một Trung đoàn trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, nhà sử học Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post là Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía. Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó, cái gọi là "cuộc thảm sát” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế bom Mỹ đã làm nhiều thường dân chết lẫn lộn cùng với quân lính 2 bên. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa tuyên bố.[3] Điều này đặt câu hỏi về việc tại sao Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa sau khi tái chiếm được Huế đã không cho các phóng viên tới hiện trường để điều tra viết bài về sự kiện chấn động này, trong khi nếu sự việc có thật thì lẽ ra họ phải tận dụng vì đây sẽ là cơ hội tuyên truyền rất tốt cho họ.

Bùi Tín

Bùi Tín, một người bất đồng chính kiến, trong hồi ký về giai đoạn còn ở Việt Nam, ông kể rằng mình đã hỏi nhiều sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào trận đánh ở Huế.[15] Ông đi đến kết luận:

"Khi kiểm tra lại thì không một ai, không cấp nào có ra lệnh thủ tiêu tù binh cả. Không có chỉ thị, chủ trương tàn sát tù binh. Trong bản qui định về kỷ luật chiến trường còn có ghi: Không được đánh đập tù binh; chỉ các cán bộ chỉ huy và chuyên môn (là quân báo và địch vận) mới được hỏi cung tù binh... Thế nhưng khi ở mặt trận lại có lệnh từ các sư đoàn xuống: "Phải giải hết tù binh loại 'ác ôn', loại nguy hiểm lên căn cứ"; phải "kiểm tra canh gác kỹ số này để không trốn được vì nếu để trốn, chúng sẽ làm lộ hết bí mật quân sự, sẽ hết sức nguy hiểm và tai hại." Danh từ "ác ôn" hồi ấy dùng cũng tràn lan, tuỳ tiện, mỗi đơn vị hiểu 1 kiểu: viên chức ở xã, ở huyện, ở tỉnh; chỉ huy tiểu đội trưởng lên đến đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng; đảng viên đảng Dân Chủ, Cần Lao cũ...; lính dù, biệt động, thủy quân lục chiến; lại còn có đơn vị coi người họ Tôn Thất, Bảo, Vĩnh... là gốc phong kiến, chống Cộng... Trên lại chỉ thị nghiêm không được để xổng tù binh, vì sẽ lộ bí mật quân sự, rất nguy hiểm. Đến khi chiến sự khẩn trương, quân Mỹ đổ bộ, ứng cứu, máy bay, pháo binh, pháo từ biển bắn dữ dội, bộ đội di chuyển, rồi lệnh rút lên núi, phải mang cả tù binh theo...
Giữa cảnh hỗn loạn khi có lệnh rút, quân đối phương lại có những mũi vu hồi chặn hậu. Phía sau, phía trước, ngay trong khu vực hành quân đều bị bom và hỏa lực pháo... Quân hai bên và tù binh chết hoặc bị thương lẫn lộn. Một số đơn vị nảy ra hành động thủ tiêu tù binh "để không bị lộ bí mật, không bị nguy hiểm, khỏi vướng chân, nếu không sẽ chết cả nút..."[cần dẫn nguồn][cần số trang] Cuối cùng cũng còn một số ít tù binh giải về căn cứ, được dùng để đào hầm hố, khuân vác... một số về sau được thả về. Hai nữa là có trường hợp xảy ra những trận ném bom rất lớn của máy bay Mỹ khi quân Mỹ phản công, bom Mỹ giết hại người của cả 2 bên (quân Giải phóng cùng với những tù binh họ giải đi). Thi hài quân Giải phóng thì được chôn và đánh dấu, có khi được đưa về gần căn cứ, còn thi hài tù binh thì phải vùi nhanh."[15][16]

Douglas Pike

Theo Pike:[5] thì có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử.

Nhiều tác giả sử dụng báo cáo của Pike, trong khi nhiều người khác thì phủ nhận, cho rằng đây là một chiêu bài tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa để tạo hỗ trợ cho sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Trong những thời gian đầu cuộc chiến, nhiều phóng viên chiến trường phải viết phóng sự tuân theo một quy định áp đặt từ chính phủ Hoa Kỳ.

Gareth Porter

Về sau có khảo cứu của Gareth Porter[6] về vụ thảm sát Huế, trong đó, ông chỉ trích những phóng đại tuyên truyền từ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Ông nói các thông tin về cái gọi là đàn áp tôn giáo là thiếu chính xác[17] Porter cũng nêu là tại khu Gia Hội, nơi quân Giải phóng đã kiểm soát trong 26 ngày, một linh mục Công giáo nói với Len Ackland rằng không có một ai trong số các giáo dân của ông bị hại[18].

Ông đã nêu ra các nguồn gốc không xác thực của những thông tin về vụ "thảm sát"[19]; sự không rõ ràng trong việc điều tra tại thực địa các ngôi mộ tập thể[20]; những mâu thuẫn trong các báo cáo về số lượng tử thi tìm thấy; những mâu thuẫn với kết quả tìm hiểu của một bác sỹ y khoa làm việc tại Huế lúc đó; một số chi tiết đáng chú ý xung quanh các cuộc khai quật vào năm 1969; những mâu thuẫn giữa bài viết của Douglas Pike với các nguồn thông tin khác, rằng "Bộ trưởng Y tế Trần Lưu Y, sau khi đi thăm các địa điểm chôn cất vào tháng Tư năm 1969, đã thông báo với Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên rằng các tử thi có thể là của những người lính Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị chết trong các trận giao tranh"[21]; những mâu thuẫn trong các lời khai của "người làm chứng" cho vụ thảm sát[22]; và thêm vào đó là kết quả của những trận bom Mỹ tại Huế đã khiến nhiều thường dân thiệt mạng.[23].

Gareth Porter cho biết rằng một người bác sỹ có mặt tại Huế vào thời điểm tìm thấy các mộ chôn, Alje Vennema[9], viết rằng đối với các địa điểm trong khu lăng vua, hầu hết các tử thi có dấu vết của quân phục. Vennema đã hỏi chuyện các dân làng gần đó, họ nói rằng trong các ngày 21 đến 26 tháng 2 khu vực trung gian đã bị bom và pháo dữ dội. Và, trái với các tuyên bố của chính phủ rằng nhiều nạn nhân đã bị chôn sống tại đó, Vennema nói rằng tất cả các tử thi đều có các vết thương.

Trong kết luận của bài viết, Gareth Porter đồng ý rằng có những vụ xử tử, giết người tại Huế trong giai đoạn đóng quân; tuy nhiên không có bằng chứng cụ thể về nguyên nhân của những cái chết.

"Các bằng chứng có được -- không phải từ nguồn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, mà từ nguồn chính thức của Hoa KỳViệt Nam Cộng Hòa và từ các quan sát viên độc lập -- cho thấy rằng câu chuyện chính thức về một cuộc tàn sát bừa bãi đối với những người được cho là không thích hợp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là hoàn toàn bịa đặt. Không chỉ số lượng các thi thể được tìm thấy trong và xung quanh Huế đáng nghi vấn, mà quan trọng hơn, nguyên do của các cái chết có vẻ như là bị chuyển từ chính các trận đánh quân sự sang việc xử tử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Và tường trình chi tiết nhất "có thẩm quyền" mà các chính phủ Mỹ hay Việt Nam Cộng hòa đưa ra về sự việc được cho là vụ thảm sát này đã không đứng vững trước các thẩm định."[24].

Marilyn B. Young

Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990[25] ghi lại:

"Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ ... khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh - với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế..."

Clifford, James O

Sau khi Việt Cộng chiếm được thành phố Huế tháng 1 năm 1968, họ bắt đầu một cuộc thảm sát có hệ thống dân thường. (Clifford, James O. "Forgotten massacre at hue." Vietnam, Feb, 2002, Vol.14(5), p.26(6))

Các nguồn khác

Philip W. Manhard, một cố vấn cao cấp Hoa Kỳ tại Huế bị bắt đem ra trại tù binh ở miền Bắc Việt Nam (được thả năm 1973). Ông tuyên bố rằng mình còn nhớ rõ những vụ bắn giết tại chỗ những người già yếu không đủ sức đi theo cuộc di tản tù nhân.[cần dẫn nguồn]

Năm 1969, phóng viên Don Oberdorfer[26] sang ở Huế 5 ngày với Paul Vogle, giáo sư dạy Anh Văn người Mỹ tại Đại học Huế, và phỏng vấn nhiều nhân chứng trong thời gian Huế bị quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đóng giữ. Theo Oberdorfer, các vụ giết người chia làm hai loại:

  1. Loại xử tử có kế hoạch cho những giới chức chính phủ Việt Nam Cộng hòa và gia đình thân quyến của họ, nhân viên chính phủ và dân sự và những người "theo Mỹ".
  2. Loại bắn tại chỗ những ai chạy trốn không trả lời thẩm vấn, những ai nói xấu về cuộc "chiếm đóng" Huế, những ai có thái độ "không tốt" với quân cai quản.

Tuy không thể chứng minh bằng nguồn tin nào khác, Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ khu Phú Cam đều bị đem đi và bắn chết. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý - một chỉ huy Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc tổng tấn công 1968 đã đào ngũ - ông này cho biết Đảng Cộng sản Việt Nam có lưu ý đặc biệt về khu Công giáo Phú Cam.[26]

Một nhân chứng người Việt ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa, thì cho biết: "Bắt đầu là chúng nó (quân Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống."[27]

Chú thích

  1. ^ Tet Offensive, the battle of Hue, in History of Vietnam - Tet Offensive”. Vets With A Mission, this article is taken from the book Vietnam Experience Nineteen Sixty-Eight ISBN 978-0939526062. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp); Liên kết ngoài trong |publisher= (trợ giúp)
  2. ^ a b Sự thật về 3 nhân vật bị kẻ thù gọi là "đồ tể khát máu": Sự vu khống tráo trở..., Báo Công An Nhân Dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An
  3. ^ a b c "Giải mã" Mậu Thân 1968, Thanh Niên Online
  4. ^ a b Herman & Porter, The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Tập 13, Chương 8, May-June 1975
  5. ^ a b Douglas Pike, "Vietcong Strategy of Terror" (PDF)
  6. ^ a b c D.Gareth Porter. "The 1968 'Hue Massacre'". Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974.
  7. ^ Saigon Post, March 17, 1968
  8. ^ VC Carnage in Hue, Tenth Political Warfare Battalion, 1968, p. 8.
  9. ^ a b Alje Vennema, "The Tragedy of Hue," unpublished manuscript, 1968, pp. 19-23.
  10. ^ The Tet Offensive: A Concise History. James H. Willbanks. Columbia University Press. P 101
  11. ^ Woodruff, Mark. Unheralded Victory. Arlington, VA: Vandamere Press, 1999. tr 209
  12. ^ “Phỏng vấn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1982”. WGBH OpenVault. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  13. ^ "Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế", phỏng vấn trên đài RFI, 12-7-1997, đăng lại trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 36, ngày 8/9/1997, trang 197-200.
  14. ^ Lật lại những câu chuyện lịch sử “nhạy cảm” trong chiến dịch Mậu Thân 1968, Báo điện tử Dân trí
  15. ^ a b Mặt thật, Vụ tàn sát ở Huế, Bùi Tín, Nxb Sài Gòn Press
  16. ^ Mây mù thế kỷ, Phần 1: Nhìn lại cuộc chiến tranh, Bùi Tín, Nxb Đa Nguyên
  17. ^ "...Về những người Công giáo ở Huế, bằng chứng từ cả các tài liệu của Cộng sản và nhân chứng cho thấy chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không hướng về phía chống lại Giáo hội Công giáo. Tài liệu Kế hoạch công kích và khởi nghĩa bắt được nói đến việc 'cô lập (isolate) những tên phản cách mạng lợi dụng Công giáo tại Phú Cam'. Tuy nhiên, trong thuật ngữ tiếng Việt của Cộng sản, 'cô lập' có nghĩa hành động để cắt đứt các ảnh hưởng của các cá nhân nói trên ra khỏi các sự vụ của cộng đồng. Nó không có nghĩa hành quyết hay thậm chí không nhất thiết có nghĩa bỏ tù, trái với những gì mà các chuyên gia chiến tranh chính trị có thể thuyết phục. Tài liệu chỉ ra rằng chỉ có các mục sư bị phát hiện 'che giấu địch' mới là đối tượng trừng phạt, và mức độ trừng phạt cụ thể còn tùy vào mức độ mà chống đối cách mạng của cá nhân đó trong quá khứ...".
  18. ^ trích dẫn Ackland và Porter, op. cit., p. 145
  19. ^ "...chính quyền Sài Gòn không cho phép bất kỳ phóng viên nào xem các địa điểm có mộ hay các tử thi..."
  20. ^ Porter trích Le Monde, April 13, 1968, rằng Marc Riboud dùng trực thăng để đến địa điểm đã thông báo thì phi công từ chối hạ cánh với lí do là vùng đất đó "không an toàn". Danh sách địa điểm không giống với cái mà Đại tá Tỉnh trưởng Phạm Văn Khoa miêu tả.
  21. ^ Porter trích báo Tiền Tuyến, ngày 3-5-1969; ông cũng dẫn lời Washington Post, May 5, 1969 là "Một sỹ quan Mỹ tại Huế đã thừa nhận với một phóng viên tờ Washington Post tại một lễ tang tập thể cho những người chết: Một số có thể đã đơn giản là bị kẹt lại [trong các cuộc giao tranh]"
  22. ^ Porter nêu ra sự mâu thuẫn thông tin trong hai cuộc phỏng vấn của Baltimore Sun và báo Tiền Tuyến, ngày 17 tháng 10 năm 1969, với cùng một nhân chứng
  23. ^ "...toàn bộ những vùng tìm thấy các hố chôn là chiến trường trong nhiều tuần của năm 1968. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tiếp tục giữ nhiều làng nhỏ ngay cả sau khi đã bị đẩy ra khỏi thành phố, và một số làng vẫn nằm trong quyền kiểm soát của họ trong hàng tháng, khi các máy bay ném bom của Mỹ đánh phá họ dữ dội...Làng Phú Mỹ, chỉ cách Huế 3 dặm về phía đông, là một trong các làng đã bị các đơn vị Cộng sản chiếm giữ trong cuộc tổng tấn công, khi nhiều nam giới trẻ nằm trong tuổi quân sự đã được gọi vào Quân Giải Phóng. Theo một cuộc phỏng vấn sau này với một người dân làng, máy bay Mỹ đã liên tục ném bom làng, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và làm nhiều dân thường thiệt mạng....Phú Xuân, cách Huế 13 dặm, đã là chiến trường của các cuộc giao tranh dữ dội, trong đó có sự sử dụng mạnh của không lực Mỹ, trong các tuần nối tiếp cuộc Tổng tấn công..."
  24. ^ Nguyên văn: The available evidence -- not from NLF sources but from official U.S. and Saigon documents and from independent observers -- indicates that the official story of an indiscriminate slaughter of those who were considered to be unsympathetic to the NLF is a complete fabrication. Not only is the number of bodies uncovered in and around Hue open to question, but more important, the cause of death appears to have been shifted from the fighting itself to NLF execution. And the most detailed and "authoritative" account of the alleged executions put together by either government does not stand up under examination.
  25. ^ Young, Marilyn B., The Vietnam Wars, 1945-1990 (New York: Harper Perennial, 1991)
  26. ^ a b Oberdorfer, Don. Tet!: The Turning Point in the Vietnam War. New York: Doubleday & Company, 1971.
  27. ^ Vietnam: A Television History.” PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production. Tập 7

Đọc thêm

  • Arnold, James R., Tet Offensive 1968: Turning Point in Vietnam, London: Osprey 1990
  • Bullington, James R. "And Here, See Hue," Foreign Service Journal, November 1968.
  • Christmas, G. R. "A Company Commander Reflects on Operation Hue City," Marine Corps Gazette, April 1971.
  • Davidson, Phillip B. Vietnam at War: The History, 1946-1975. Novato, CA: Presidio Press, 1988.
  • Hammel, Eric. Fire in the Streets: The Battle for Hue, Tet 1968. Chicago: Contemporary Books, 1991.
  • Harkanson, John, and Charles McMahon. "USMC & Tet ’68: There’s a Little Trouble in Hue …," Vietnam Combat, Winter 1985.
  • Krohn, Charles A., The Lost Battalion: Controversy and Casualties in the Battle of Hue, Praeger Publishers, 1993
  • Nolan, Keith William. Battle for Hue: Tet 1968. Novato, CA: Presidio Press, 1983.
  • Palmer, Dave Richard. Summons of the Trumpet: U.S.-Vietnam in Perspective. Novato, CA: Presidio Press, 1978.
  • Phan Van Son. The Viet Cong Tet Offensive (1968). Saigon: Republic of Vietnam Armed Forces, 1969.
  • Pike, Douglas. PAVN: People’s Army of Vietnam. Novato, CA: Presidio Press, 1986.
  • Secrets of the Vietnam War. Novato, CA: Presidio Press, 1990.
  • Smith, Captain George W., USA. "The Battle of Hue," Infantry, July-August 1968.
  • Stanton, Shelby L. Anatomy of a Division: 1st Cav in Vietnam. Novato, CA: Presidio Press, 1987.
  • Tolson, Major General John J., 3rd. Airmobility: 1961-1971. Washington, D.C.: Department of the Army, 1973.
  • Truong Sinh. "The Fight to Liberate the City of Hue During Mau Than Tet (1969)," Hoc Tap, December 1974.
  • Tucker, Spencer, Vietnam. London: UCL Press, 1999
  • Vietnam Order of Battle. New York: U.S. News and World Report, Inc., 1981.

Xem thêm

Liên kết ngoài

(tiếng Việt)

(tiếng Anh)