Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đông Nam Á”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ZéroBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.1) (Bot: Thêm zh-classical:東南亞
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 97 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q11708 Addbot
Dòng 228: Dòng 228:
[[Thể loại:Đông Nam Á| ]]
[[Thể loại:Đông Nam Á| ]]


[[ace:Asia Teunggara]]
[[als:Südostasien]]
[[ar:جنوب شرق آسيا]]
[[frp:Asia du Sud-Levant]]
[[id:Asia Tenggara]]
[[ms:Asia Tenggara]]
[[bn:দক্ষিণ-পূর্ব এশিয়া]]
[[zh-min-nan:Tang-lâm-a]]
[[map-bms:Asia Tenggara]]
[[jv:Asia Kidul-wétan]]
[[su:Asia Tenggara]]
[[be:Паўднёва-Усходняя Азія]]
[[be-x-old:Паўднёва-Ўсходняя Азія]]
[[bcl:Sur-subangan na Asya]]
[[bs:Jugoistočna Azija]]
[[br:Azia ar Gevred]]
[[bug:Asia Tenggara]]
[[bg:Югоизточна Азия]]
[[ca:Àsia Sud-oriental]]
[[ceb:Habagatang-sidlakang Asya]]
[[cs:Jihovýchodní Asie]]
[[cy:De-ddwyrain Asia]]
[[da:Sydøstasien]]
[[de:Südostasien]]
[[et:Kagu-Aasia]]
[[en:Southeast Asia]]
[[es:Sudeste Asiático]]
[[eo:Sud-Orienta Azio]]
[[eu:Hego-ekialdeko Asia]]
[[fa:آسیای جنوب شرقی]]
[[fo:Landsynningsásia]]
[[fr:Asie du Sud-Est]]
[[fy:Súdeast-Aazje]]
[[gl:Sueste asiático]]
[[gan:東南亞]]
[[hak:Tûng-nàm-â]]
[[ko:동남아시아]]
[[hy:Հարավ-Արևելյան Ասիա]]
[[hi:दक्षिण पूर्व एशिया]]
[[hr:Jugoistočna Azija]]
[[is:Suðaustur-Asía]]
[[it:Sud-est asiatico]]
[[he:דרום-מזרח אסיה]]
[[kn:ಆಗ್ನೇಯ ಏಷ್ಯಾ]]
[[ka:სამხრეთ-აღმოსავლეთი აზია]]
[[kk:Оңтүстік-Шығыс Азия]]
[[sw:Asia ya Kusini-Mashariki]]
[[ku:Başûr-rojhilatê Asyayê]]
[[la:Asia Meridiorientalis]]
[[lv:Dienvidaustrumāzija]]
[[lt:Pietryčių Azija]]
[[hu:Délkelet-Ázsia]]
[[mk:Југоисточна Азија]]
[[mg:Azia Atsimo Atsinanana]]
[[ml:തെക്കുകിഴക്കേ ഏഷ്യ]]
[[krc:Къыбыла-Кюнчыгъыш Азия]]
[[mr:आग्नेय आशिया]]
[[mn:Зүүн Өмнөд Ази]]
[[my:အရှေ့တောင်အာရှ]]
[[nl:Zuidoost-Azië]]
[[ja:東南アジア]]
[[no:Sørøst-Asia]]
[[nn:Søraust-Asia]]
[[oc:Asia del Sud-Èst]]
[[uz:Janubi-Sharqiy Osiyo]]
[[km:អាស៊ីអាគ្នេយ៍]]
[[pl:Azja Południowo-Wschodnia]]
[[pt:Sudeste Asiático]]
[[ro:Asia de Sud-Est]]
[[ru:Юго-Восточная Азия]]
[[sah:Соҕуруулуу-илин Азия]]
[[sq:Azia Juglindore]]
[[scn:Asia dû Sud-est]]
[[simple:Southeast Asia]]
[[sk:Juhovýchodná Ázia]]
[[sl:Jugovzhodna Azija]]
[[ckb:باشووری ڕۆژھەڵاتی ئاسیا]]
[[sr:Југоисточна Азија]]
[[sh:Jugoistočna Azija]]
[[fi:Kaakkois-Aasia]]
[[sv:Sydostasien]]
[[tl:Timog-silangang Asya]]
[[ta:தென்கிழக்காசியா]]
[[tt:Көньяк-көнчыгыш Азия]]
[[te:ఆగ్నేయ ఆసియా]]
[[th:เอเชียตะวันออกเฉียงใต้]]
[[tr:Güneydoğu Asya]]
[[tk:Günorta-Gündogar Aziýa]]
[[uk:Південно-Східна Азія]]
[[ur:جنوب مشرقی ایشیاء]]
[[zh-classical:東南亞]]
[[zh-classical:東南亞]]
[[war:Salatan-Sinirangan nga Asya]]
[[wo:Bëj-saalum-penku Asi]]
[[yi:דרום-מזרח אזיע]]
[[yo:Gúúsù-Ìlàòrùn Ásíà]]
[[zh-yue:東南亞]]
[[diq:Asyaya Verocê Rocvetışi]]
[[diq:Asyaya Verocê Rocvetışi]]
[[bat-smg:Pėitrītiu Azėjė]]
[[zh:东南亚]]

Phiên bản lúc 21:57, ngày 7 tháng 3 năm 2013

Đông Nam Á

Địa hình của Đông Nam Á
Địa hình của Đông Nam Á
Diện tích 4,523,000 km²
Dân cư 568,300,000
Mật độ 126 người/km²
Số quốc gia 11
Lãnh thổ 13
GDP $900 tỷ dollar (tỷ giá hối đoái)
$2.8 ngàn tỷ dollar (PPP)
GDP trên đầu người $1,584 (tỷ giá hối đoái)
$4,927 (PPP)
Ngôn ngữ Hệ Á-Phi: tiếng Ả Rập

Hệ Nam Á: tiếng Khmer, tiếng Việt, nhóm Nicobar

Hệ Nam đảo: tiếng Bugi, tiếng Malay, tiếng Tetum, tiếng Tagalog, tiếng Cebuano, tiếng Ilokano, tiếng Hiligaynon, tiếng Bikol, tiếng Waray-Waray, tiếng Kapampangan, tiếng Pangasinan, tiếng Java, tiếng Sundan, tiếng Madura

Hệ Dravid: tiếng Tamil, tiếng Malayalam, tiếng Telugu

Hệ Ấn-Âu: tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bengal, tiếng Hindi, tiếng Punjab

Hệ Hán-Tạng: tiếng Miến Điện, tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Mân, tiếng Đài Loan (Mân Nam), tiếng Lan-nang

Hệ Tai-Kadai: tiếng Thái, tiếng Lào

nhiều ngôn ngữ khác

Múi giờ UTC +5:30 (Đảo Andaman và Nicobar) tới UTC +9:00 (Indonesia)
Thủ đô Brunei Bandar Seri Begawan
Thái Lan Bangkok
Đông Timor Dili
Việt Nam Hà Nội
Indonesia Jakarta
Malaysia Kuala Lumpur
Philippines Manila
Myanmar Naypyidaw
Campuchia Phnom Penh
Lào Viêng Chăn
Thành phố lớn nhất
Indonesia Jakarta
Philippines Manila
Việt Nam TPHCM
Thái Lan Bangkok
Myanmar Yangon
Singapore Singapore
Malaysia Kuala Lumpur
Indonesia Bandung
Indonesia Surabaya
Indonesia Medan
Philippines Cebu
Việt Nam Hà Nội
Indonesia Palembang
Indonesia Semarang
Campuchia Phnom Penh

Đông Nam Á là một khu vực của châu Á, bao gồm các nước nằm ở phía Nam Trung Quốc, phía Đông Ấn Độphía Bắc của Úc, rộng 4.494.047 km² và bao gồm 11 quốc gia: Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái LanViệt Nam cũng có chổ ở Papua New Guinea. Vào năm 2004, dân số của cả khu vực lên đến 556.2 triệu người (số liệu năm 2005[1]), trong đó hơn 1/6 sống trên đảo Java (Indonesia).

Địa hình

Đông Nam Á là chỗ giao nhau của nhiều mảng địa chấtnúi lửađộng đất hoạt động mạnh. Các quốc gia của khu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanma, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa, còn gọi bán đảo Trung Ấn, trong khi đó các nước còn lại tạo nên Quần đảo Mã Lai. Quần đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về Vành đai núi lửa Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất thế giới.

Trong 11 nước Đông Nam Á, thì có 10 quốc gia có hải giới, trừ Lào. Philippines và Singapore là 2 nước trong khu vực này không có địa giới chung với bất kỳ quốc gia nào.

Tên gọi

Ý niệm về Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt đã có từ lâu. Song cùng với thời gian, khái niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn. Người Trung Quốc xưa kia thường dùng từ "Nam Dương" để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía Nam. Người Nhật gọi vùng này là "NanYo". Người Ả Rập xưa gọi vùng này là "Qumr", rồi lại gọi là "Waq - Waq" và sau này chỉ gọi là "Zabag". Còn người Ấn Độ từ xưa vẫn gọi vùng này là "Suvarnabhumi" (đất vàng) hay "Suvarnadvipa" (đảo vàng). Tuy nhiên đối với các lái buôn thời bấy giờ, Đông Nam Á được nhìn nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu gia vị và những sản phẩm kì lạ khác, còn sinh sống ở đây là những con người thành thạo và can đảm.

Tên gọi "Đông Nam Á" được các nhà nghiên cứu chính trị và quân sự của Hà Lan, Anh, Mỹ đưa ra từ những năm đầu khi nổ ra Thế chiến thứ hai, nhưng chính thức đi vào lịch sử với ý nghĩa là một khu vực địa - chính trị, và quân sự được bắt đầu từ khi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill tại Hội nghị Québec lần thứ nhất vào tháng 8 năm 1943 nhất trí thành lập Bộ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á. Trước đó, để chỉ khu vực này, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho những mục đích riêng biệt.

Lúc bấy giờ cũng có sự khác nhau về cách viết từ Đông Nam Á bằng tiếng Anh. Một số nhà nghiên cứu như Victor Purcell, E.G.H. Dobby, dùng từ Southeast thay cho South East hay South-East, vốn được dùng từ lâu. Bộ tư lệnh tối cao Đông Nam Á (SEAC) vẫn dùng từ Southeast, [cần dẫn nguồn]. Như thế có thể thấy rằng từ sau Thế chiến thứ hai, từ "Đông Nam Á" mới xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới như một khu vực riêng biệt và có tầm quan trọng đặc biệt. Song nếu như trước đây, người ta mới chỉ nhìn thấy tính khu vực Đông Nam Á thể hiện ở vị trí địa lí - chính trị và quân sự của nó thì đến nay nhiều người đã khẳng định rằng ít nhất cho đến thế kỉ 16, Đông Nam Á đã nổi lên như một trong những trung tâm văn minh, một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa truớc khi trở thành một khu vực địa lí - chính trị.

Văn minh Đông Nam Á

Chùa Bạc, Campuchia

Trong quá trình phát triển lịch sử, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng cuả các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy không vì thế mà biết vùng này thành khu vực "Ấn Độ hóa" hay "Hán hoá". Nó đã lựa chọn những gì thích hợp trong văn hóa Dravid, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình, chứ không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ với nó. [cần dẫn nguồn]

Do điều kiện địa lí của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai muà tương đối rõ rệt: mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng và ẩm. Vì thế, Đông Nam Á còn được gọi là khu vực "Châu Á gió mùa". Nếu theo khái niệm này thì ranh giới địa lí khu vực Đông Nam Á còn bao gồm cả miền Nam Trường Giang và vùng Đông Bắc của Ấn Độ nữa. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng Đông Nam Á đáng lẽ có thể trở nên khô cằn như một số khi vực lục địa khác có cùng vĩ độ [2] đã trở nên xanh tốt và trù phú với những đô thị đông đức và thịnh vượng như Kuala Lumpur, Singapore, Jakarta... Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất hằng năm, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, trầm hương... và cây lương thực đặc trưng là lúa nước.

Theo một số nhà nghiên cứu thì cư dân Đông Nam Á có những nét chung thống nhất về mặt văn hóa, vì cư dân ở đây có chung một nền tảng văn hóa Đông Nam Á, lấy sản xuất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chính. Đông Nam Á được coi là "cái nôi" của cây lúa nước và là một trong 5 trung tâm cây trồng lớn trên thế giới[cần dẫn nguồn]. Văn hóa Hòa Bình đã chứng minh cư dân ở đây đã thuần hóa nhiều giống lúa, thực vật khác nhau, xuất hiện nền nông nghiệp sơ khai với các loại cây trồng, đặc biệt là các loại cây có củ và bầu bí, các cây họ đậu ở vùng thung lũng chân núi. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng chủ nhân văn hóa Hoà Bình là người biết trồng trọt đầu tiên trên thế giới[cần dẫn nguồn]; niên đại nông nghiệp ở đây có thể lên đến hơn 1 vạn năm TCN. Vì thế, Đông Nam Á đã là một trong những nơi có cuộc cách mạng nông nghiệp sớm nhất trên thế giới. Đến thời đại đồ đồng, trong điều kiện của vùng nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã bước sang kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở vùng thung lũng hẹp châu thổ. Cây lúa đầu tiên được thuần dưỡng ở vùng vùng thung lũng theo chân núi dần dần được chuyển xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập nước. Cùng với việc trồng lúa nước, người ta đã thuần dưỡng trâu bò làm sức kéo, xuất hiện các nghề thủ công, đặc biệt là nghề sông biển. Từ đó, nông nghiệp lúa nước đã trở thành một cơ sở quan trọng của nền văn minh khi vực. Đó là một nền văn minh mang đủ các sắc thái của những nền văn minh đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng với đủ các dạng kết cấu đan xen phức tạp... cơ sở chung của nền văn minh này là nông nghiệp trồng lúa nước, văn hóa xóm làng.

Đến khoảng nửa đầu thế kỷ 15, hầu hết các quốc gia tiền thân ở Đông Nam Á đã ra đời, và bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ mà điển hình là nhà nước Đại Việt dưới triều nhà Lê. Đây là nhà nước hoàn thiện và hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ[cần dẫn nguồn]. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ 18, các nhà nước trên bắt đầu suy yếu và rơi vào sự xâm lược hoặc lệ thuộc vào phương Tây, bắt đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa châu Âu.

Tự nhiên ảnh hưởng đến khu vực

Phải nói rằng gió mùa không chỉ đem lại thuận lợi cho con người mà còn là những yếu tố tự nhiên tác động và tạo nên sự thất thường cho khí hậu trong vùng, với biên độ không lớn lắm. Mưa nhiệt đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo ra những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, bờ biển, và đồng bằng, tạo nên những cảnh quan đa dạng. Thực tế đó khiến cho Đông Nam Á thiếu những không gian rộng cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên quy mô lớn, thiếu những điều kiện tự nhiên cho sự phát triển những kĩ thuật tinh tế, phức tạp. Ở đây không có những đồng bằng rộng lớn như vùng châu thổ sông Ấn, sông Hằng hay Hoàng Hà; cũng không có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên. Không gian sinh tồn ở đây tuy nhỏ hẹp nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác ở thiên nhiên đủ loại thức ăn để sinh tồn. Vì thế có người gọi Đông Nam Á là khu vực khai thác thức ăn theo nghĩa rộng. Những điều kiện đó rất thuận lợi cho cuộc sống con người trong buổi đầu, nhưng không khỏi ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của một nền sản xuất lớn, tạo nên một khối lượng sản phẩm lớn trong những giai đoạn phát triển sau này của khu vực. Đồng thời, sự đa dạng, đan xen của những địa bàn sinh tụ nhỏ trong văn hóa tộc người của cả khu vục và trong mỗi quốc gia.

Kinh tế biển của khu vực Đông Nam Á

Thành phố Bangkok

Do vị trí địa lí nằm án ngữ trên con đưởng hàng hải nối liền giữa Ấn Độ DươngThái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây ÁĐịa Trung Hải Thậm chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực này là "ống thông gió" hay "ngã tư đường"[cần dẫn nguồn].

Việc đi lại bằng thuyển ở vùng Đông Nam Á đã có từ thời rất xa xưa. Có thể nói cư dân Nam Á đã biết đóng thuyền bè mảng và thuyền đi biển rất sớm. Dựa trên các tài liệu cổ học, W. Solheime đã nhận định rằng kĩ thuật đi biển xuất hiện sớm nhất ở vùng duyên hải quần đảo Sulu, giữa Mindanao, Borneođảo Celebes khoảng 8000 - 9000 năm trước. Kĩ thuật hàng hải cổ đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỉ 5 TCN khi những hình thuyền cỡ dáng to lớn, kiểu cong mũi, cong lái được khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn. Các thư tịch cổ Trung Quốc từ thế kỉ 3 cũng xác nhận rằng các sư tăng Trung Hoa sang Ấn Độ đều đi trên những thuyền gọi là "Côn Luân bản", dài đến 50 m, trọng tải đến 600 tấn, có thể trở hàng trăm người, có buồm lớn, buồm con... của các nước thương nghiệp Đông Nam Á. Những con thuyền này đều có cột, giương buồm đã vượt khơi nối liền Đông Nam Á với Trung Quốc và Ấn Độ, chở người và hàng hóa, từ đầu Công nguyên cho đến thế kỉ 15-16. Trong cuộc hành trình này, một số thuyền bị đắm. P.Y. Manguin đưa ra một danh mục 10 thuyền bị đắm đã được khảo cổ học dưới nườc phát hiện và nghiên cứu trong đó có 2 thuyền ở Pahang (Malaysia) và Agusan (Philippines) có niên đại từ thế kỉ 3-5; 3 thuyền thuộc thế kỉ 5-6 và những thuyền khác thuộc thế kỉ 7-14. Trên tường khu đền Borobudur còn có phù điêu hình con thuyền buồm lớn nhiều mái chèo, gần giống với những hạm thuyền của La Mã cổ đại[cần dẫn nguồn].

Việc buôn bán bằng đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn nhịp từ thế kỉ 2. Đến thế kỉ 7, thuyền buôn Ả Rập đã thường xuyên đến vùng này để mua hương liệu, gia vị. Không phải ngẫu nhiên mà ở đây đã có mặt những nhà địa lí hay du lịch, nhà truyền giáo hay ngọai giao của cả phương Đông và phương Tây. Trong suốt chiều dài của cuộc hàng trình nổi lên những nhà thám hiểm như Claudius Ptolemaeus[cần dẫn nguồn], Khang Thái, Nghĩa Tình, Pháp Hiển, Trịnh Hòa, Marco Polo, Chu Đạt Quang... Họ đã đến đây xem xét, ghi chép và để lại những tài liệu quý giá cho đời sau. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu coi Đông Nam Á là một bộ phận của hế thống mậu dịch thế giới, nối liền hai thế giới Đông - Tây, có từ thời truyền bá đạo Phật, đạo Hindu cho đến tận ngày nay.

Đông Nam Á là khu vục văn hóa lâu đời, có nguồn gốc và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, bên cạnh những nét chung do mối quan hệ từ lâu đời trên nhiều lĩnh vực. Dù có chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, nền văn hóa Đông Nam Á vẫn mang tính riêng biệt độc đáo.

Danh sách các quốc gia Đông Nam Á theo các số liệu kinh tế va tiền tệ 2009

STT Tiền tố thường gọi Tên quốc gia Tổng GDP (USD)[3] GDP/người (USD)[3] Tiền nội tệ [4]
1 Cộng hòa Indonesia 539.377.000.000 2.329 Rupiah (IDR)
2 Vương quốc Thái Lan 263.979.000.000 3.941 Baht (THB)
3 Liên bang Malaysia 192.955.000.000 6.950 Ringgit (MYR)
4 Cộng hòa Singapore 182.231.000.000 36.379 Dollar Singapore (SGD)
5 Cộng hòa Philippines 161.196.000.000 1.748 Peso Philippines (PHP)
6 CHXHCN Việt Nam 93.164.000.000 1.068 Đồng (VND)
7 CHLB Myanmar 34.262,000.000 571 Kyat (MMK)
8 Vương quốc Campuchia 10.871.000.000 768 Riel (KHR)
9 Vương quốc Hồi giáo Brunei 10.405.000.000 25.386 Dollar Brunei (BND)
10 CHDCND Lào 5.598.000.000 886 Kip (LAK)
11 Cộng hòa Đông Timor 556.000.000 499 Dollar Mỹ (USD)

Danh sách các quốc gia Đông Nam Á theo địa lý dân cư năm 2009

STT Tiền tố thường gọi Tên quốc gia Tổng diện tích (Km2)[5] Dân số (người) [6] Mật độ dân cư (km2/người)[7]
1 Cộng hòa Indonesia 1.860.360 231.591.670 124,5
2 Cộng hòa Philippines 300.000 92.217.391 307,4
3 CHXHCN Việt Nam 331.212 87.232.210 263,4
4 Vương quốc Thái Lan 513.120 66.982.746 130,5
5 CHLB Myanmar 676.578 60.003.503 88,7
6 Liên bang Malaysia 330.803 27.763.309 83,9
7 Vương quốc Campuchia 181.035 14.154.948 78,2
8 CHDCND Lào 236.800 6.318.284 26,7
9 Cộng hòa Singapore 705 5.009.236 7.105,3
10 Cộng hòa Đông Timor 14.874 1.114.229 74.9
11 Vương quốc Hồi giáo Brunei 5.765 409.872 71,1

Danh sách các quốc gia Đông Nam Á theo hệ thống tổ chức chính trị

STT Tiền tố thường gọi Tên quốc gia Chính thể Tổ chức Quốc hội Đứng đầu Chính phủ Nguyên thủ quốc gia
1 Cộng hòa Indonesia Cộng hòa Tổng thống đơn nhất Lưỡng viện Tổng thống Tổng thống
2 Cộng hòa Singapore Cộng hòa Nghị viện Đơn viện Thủ tướng Tổng thống
3 Cộng hòa Đông Timor Cộng hòa Nghị viện Đơn viện Thủ tướng Tổng thống
4 Cộng hòa Philippines Cộng hòa Tổng thống đơn nhất Lưỡng viện Tổng thống Tổng thống
5 CHXHCN Việt Nam Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Đơn viện Thủ tướng Chủ tịch nước
6 CHDCND Lào Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Đơn viện Thủ tướng Chủ tịch nước
7 CHLB Myanmar Cộng hòa Tổng thống đơn nhất Lưỡng viện Tổng thống Tổng thống
8 Vương quốc Campuchia Quân chủ lập hiến Lưỡng viện Thủ tướng Quốc vương
9 Vương quốc Thái Lan Quân chủ lập hiến Lưỡng viện Thủ tướng Quốc vương
10 Vương quốc Hồi giáo Brunei Quân chủ Hồi giáo tuyệt đối Hội đồng cố vấn Thủ tướng (Quốc vương kim nhiệm) Quốc vương
11 Liên bang Malaysia Liên bang Quân chủ lập hiến và Nghị viện dân chủ liên bang Lưỡng viện Thủ tướng Quốc vương

Tỉ giá hối đoái tiền nội tệ của các quốc gia Đông Nam Á

Tỉ giá hối đoái tiền nội tệ của các quốc gia Đông Nam Á được so sánh với dollar Mỹ qua các năm 2009, 2010 và 2011 (theo tỉ giá hối đoái ngày đầu năm ngày 1.1).

STT Tiền tố thường gọi Quốc gia Tỉ giá hối đoái 2009 Tỉ giá hối đoái 2010 Tỉ giá hối đoái 2011
1 Cộng hòa Indonesia 1 USD = 11.201 IDR Ví dụ 1 USD = 9.000 IDR
2 Cộng hòa Philippines 1 USD = 47,62 PHP Ví dụ 1 USD = 43,64 PHP
3 Cộng hòa Singapore 1 USD = 1,43 SGD Ví dụ 1 USD = 1,29 SGD
4 Cộng hòa Đông Timor USD Ví dụ USD
5 Vương quốc Thái Lan 1 USD = 34,73 THB Ví dụ 1 USD = 30,02 THB
6 Vương quốc Campuchia 1 USD = 4.053 KHR Ví dụ 1 USD = 4.030 KHR
7 Cộng hòa Myanmar 1 USD = 6,44 MMK Ví dụ 1 USD = 6,41 MMK
8 Vương quốc Hồi giáo Brunei 1 USD = 1,43 BND Ví dụ 1 USD = 1,29 BND
9 CHDCND Lào 1 USD = 8.480 LAK Ví dụ 1 USD = 8.020 LAK
10 CHXHCN Việt Nam 1 USD = 17.498 VND Ví dụ 1 USD = 19.495 VND
11 Liên bang Malaysia 1 USD = 3,51 MYR Ví dụ 1 USD = 3,09 MYR

Chú thích

  1. ^ sách giáo khoa Địa lý 11 cơ bản
  2. ^ lịch sử trung đại thế giới phần phương đông. GS Lương Ninh. trang 9
  3. ^ a b Thống kê các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới theo GDP danh nghĩa 2009_Quỹ tiền tệ Quốc tế - IMF
  4. ^ Mã tiền tệ ISO 4217 và Ngân hàng Thế giới - WB
  5. ^ Danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ theo diện tích_UN 2007
  6. ^ Dân số theo thống kê của IMF và WB
  7. ^ Theo số liệu diện tích của UN và dân số của IMF

Xem thêm