Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lớp Cá vây thùy”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 54 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q160830 Addbot
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 4: Dòng 4:
| image = Coelacanth-bgiu.png
| image = Coelacanth-bgiu.png
| image_width = 200px
| image_width = 200px
| image_caption = [[Cá vây tay]] (''Latimeria chalumnae'')
| image_caption = [[Bộ Cá vây tay|Cá vây tay]] (''Latimeria chalumnae'')
| regnum = [[Động vật|Animalia]]
| regnum = [[Động vật|Animalia]]
| phylum = [[Động vật có dây sống|Chordata]]
| phylum = [[Động vật có dây sống|Chordata]]
Dòng 13: Dòng 13:
| subdivision_ranks = Các phân lớp
| subdivision_ranks = Các phân lớp
| subdivision =
| subdivision =
* [[Coelacanthimorpha]] - Cá vây tay
* [[Bộ Cá vây tay|Coelacanthimorpha]] - Cá vây tay
* [[Dipnoi]] - Cá có phổi
* [[Cá phổi|Dipnoi]] - Cá có phổi
* [[Động vật dạng bốn chân|Tetrapodomorpha]] - Động vật dạng bốn chân
* [[Động vật dạng bốn chân|Tetrapodomorpha]] - Động vật dạng bốn chân
}}
}}


'''Lớp Cá vây thùy''' ('''''Sarcopterygii''''') (từ [[tiếng Hy Lạp]] ''sarx'': mập mạp (nhiều thịt) và ''pteryx'': vây) là một lớp [[cá]] có vây thùy theo truyền thống, bao gồm [[cá có phổi]] và [[cá vây tay]]. Chúng là các nhóm cá xương với các cặp vây tròn. Các cặp vây này, tương tự như các chi (chân), gợi ý rằng các loại cá này có thể là tổ tiên của [[động vật bốn chân]] trên đất liền.
'''Lớp Cá vây thùy''' ('''''Sarcopterygii''''') (từ [[tiếng Hy Lạp]] ''sarx'': mập mạp (nhiều thịt) và ''pteryx'': vây) là một lớp [[cá]] có vây thùy theo truyền thống, bao gồm [[cá phổi|cá có phổi]] và [[bộ Cá vây tay|cá vây tay]]. Chúng là các nhóm cá xương với các cặp vây tròn. Các cặp vây này, tương tự như các chi (chân), gợi ý rằng các loại cá này có thể là tổ tiên của [[động vật bốn chân]] trên đất liền.


Phần lớn các nhà phân loại học mà tán thành cách tiếp cận kiểu miêu tả theo nhánh còn gộp trong phạm vi nhóm này cả siêu lớp [[Động vật bốn chân|Tetrapoda]], là nhóm bao gồm tất cả các loài [[động vật có xương sống]] với bốn chân (tứ chi). Các vây-chi của cá vây thùy thể hiện sự tương tự rất lớn với các chi của các dạng tổ tiên (được cho là như thế) của động vật bốn chân, vì thế trong nhiều tài liệu khoa học về sinh vật người ta cho rằng chúng là tổ tiên trực tiếp của động vật bốn chân một cách rộng khắp.
Phần lớn các nhà phân loại học mà tán thành cách tiếp cận kiểu miêu tả theo nhánh còn gộp trong phạm vi nhóm này cả siêu lớp [[Động vật bốn chân|Tetrapoda]], là nhóm bao gồm tất cả các loài [[động vật có xương sống]] với bốn chân (tứ chi). Các vây-chi của cá vây thùy thể hiện sự tương tự rất lớn với các chi của các dạng tổ tiên (được cho là như thế) của động vật bốn chân, vì thế trong nhiều tài liệu khoa học về sinh vật người ta cho rằng chúng là tổ tiên trực tiếp của động vật bốn chân một cách rộng khắp.


==Đặc trưng==
==Đặc trưng==
Nhóm cá vây thùy đầu tiên - [[Crossopterygii]] - là cá xương với các vây dày thịt, phân thùy thành cặp đôi, kết nối với cơ thể bằng một xương duy nhất<ref>Clack J. A. (2002) Gaining Ground: The Origin and Evolution of Tetrapods. Nhà in Đại học Indiana, ISBN 9780253340542.</ref> Các vây của Crossopterygii khác với vây của các loài cá khác ở chỗ mỗi vây được sinh ra trên một cuống dày cùi thịt, giống như thùy, có vảy, kéo dài ra từ thân. Các vây ngực và vây chậu có các khớp giống như khớp chân của [[Tetrapoda]]. Các vây này đã tiến hóa thành chân của các động vật bốn chân đầu tiên là [[Amphibia]]. Chúng cũng có 2 vây lưng với phần gốc tách biệt, khác với một vây lưng duy nhất của [[Actinopterygii]] (cá vây tia). Hộp sọ của Sarcoptergygii nguyên thủy có 1 đường khớp nối, nhưng nó đã mất đi ở Tetrapoda và cá phổi. Nhiều loài cá vây thùy đầu tiên có đuôi đối xứng. Tất cả các loài cá vây thùy đều có răng được [[men răng]] thật sự che phủ.
Nhóm cá vây thùy đầu tiên - [[Crossopterygii]] - là cá xương với các vây dày thịt, phân thùy thành cặp đôi, kết nối với cơ thể bằng một xương duy nhất<ref>Clack J. A. (2002) Gaining Ground: The Origin and Evolution of Tetrapods. Nhà in Đại học Indiana, ISBN 9780253340542.</ref> Các vây của Crossopterygii khác với vây của các loài cá khác ở chỗ mỗi vây được sinh ra trên một cuống dày cùi thịt, giống như thùy, có vảy, kéo dài ra từ thân. Các vây ngực và vây chậu có các khớp giống như khớp chân của [[Động vật bốn chân|Tetrapoda]]. Các vây này đã tiến hóa thành chân của các động vật bốn chân đầu tiên là [[Động vật lưỡng cư|Amphibia]]. Chúng cũng có 2 vây lưng với phần gốc tách biệt, khác với một vây lưng duy nhất của [[Lớp Cá vây tia|Actinopterygii]] (cá vây tia). Hộp sọ của Sarcoptergygii nguyên thủy có 1 đường khớp nối, nhưng nó đã mất đi ở Tetrapoda và cá phổi. Nhiều loài cá vây thùy đầu tiên có đuôi đối xứng. Tất cả các loài cá vây thùy đều có răng được [[men răng]] thật sự che phủ.


Các nhà phân loại học nào đi theo cách tiếp cận của miêu tả theo nhánh học đều gộp nhóm Tetrapoda vào trong phạm vi nhóm cá vây thùy, mà tới lượt nó lại bao gồm toàn bộ các loài động vật có xương sống với 4 chân<ref name="Nelson">{{chú thích sách|title=Fish of the World|last=Nelson|first=Joseph S.|publisher=John Wiley & Sons, Inc|year=2006|isbn=0-471-25031-7}}</ref>. Các vây dạng chi của các loài Sarcopterygii như cá vây tay ([[Coelacanthiformes]]) thể hiện sự tương tự rất mạnh khi so với dạng tổ tiên được dự kiến của các chi của Tetrapoda. Crossopterygii dường như đã phát triển theo 2 nhánh khác biệt và tương ứng với điều đó được chia ra thành 2 phân lớp, là [[Rhipidistia]] (bao gồm cả Dipnoi hay cá phổi, và [[Tetrapodomorpha]] trong đó có Tetrapoda) và [[Actinistia]] (cá vây tay).
Các nhà phân loại học nào đi theo cách tiếp cận của miêu tả theo nhánh học đều gộp nhóm Tetrapoda vào trong phạm vi nhóm cá vây thùy, mà tới lượt nó lại bao gồm toàn bộ các loài động vật có xương sống với 4 chân<ref name="Nelson">{{chú thích sách|title=Fish of the World|last=Nelson|first=Joseph S.|publisher=John Wiley & Sons, Inc|year=2006|isbn=0-471-25031-7}}</ref>. Các vây dạng chi của các loài Sarcopterygii như cá vây tay ([[Bộ Cá vây tay|Coelacanthiformes]]) thể hiện sự tương tự rất mạnh khi so với dạng tổ tiên được dự kiến của các chi của Tetrapoda. Crossopterygii dường như đã phát triển theo 2 nhánh khác biệt và tương ứng với điều đó được chia ra thành 2 phân lớp, là [[Rhipidistia]] (bao gồm cả Dipnoi hay cá phổi, và [[Động vật dạng bốn chân|Tetrapodomorpha]] trong đó có Tetrapoda) và [[Actinistia]] (cá vây tay).


== Tiến hóa của cá vây thùy ==
== Tiến hóa của cá vây thùy ==
[[Tập tin:Fishapods.jpg|nhỏ|phải|350px|Sự hình thành loài của [[động vật có xương sống]] cuối [[kỷ Devon]] cho thấy cá vây thùy (Sarcopterygii) như ''[[Panderichthys]]'' có các hậu duệ như ''[[Eusthenopteron]]'' có thể hít thở không khí trong các đám bùn lầy và nông, sau đó là ''[[Tiktaalik]]'' mà các vây tựa như chân của chúng có thể giúp chúng bò lên mặt đất, khởi đầu cho những [[động vật lưỡng cư]] có [[động vật bốn chân|bốn chân]] đầu tiên, chẳng hạn như ''[[Acanthostega]]'' với các chân có 8 ngón hay ''[[Ichthyostega]]'' với các chân đã phát triển, sinh sống trong các đầm lầy đầy cỏ dại. Cá vây thùy cũng tiến hóa thành các loài [[Bộ Cá vây tay|Coelacanthiformes]] còn sống sót cho đến ngày nay.]]
[[Tập tin:Fishapods.jpg|nhỏ|phải|350px|Sự hình thành loài của [[động vật có xương sống]] cuối [[kỷ Devon]] cho thấy cá vây thùy (Sarcopterygii) như ''[[Panderichthys]]'' có các hậu duệ như ''[[Eusthenopteron]]'' có thể hít thở không khí trong các đám bùn lầy và nông, sau đó là ''[[Tiktaalik]]'' mà các vây tựa như chân của chúng có thể giúp chúng bò lên mặt đất, khởi đầu cho những [[động vật lưỡng cư]] có [[động vật bốn chân|bốn chân]] đầu tiên, chẳng hạn như ''[[Acanthostega]]'' với các chân có 8 ngón hay ''[[Ichthyostega]]'' với các chân đã phát triển, sinh sống trong các đầm lầy đầy cỏ dại. Cá vây thùy cũng tiến hóa thành các loài [[Bộ Cá vây tay|Coelacanthiformes]] còn sống sót cho đến ngày nay.]]


Cá vây thùy thuộc về nhóm cá xương ([[Osteichthyes]]), được đặc trưng bởi bộ xương được tạo ra từ chất xương thay vì chất sụn. Các loài cá vây thùy cổ nhất được tìm thấy trong tầng cao nhất của [[kỷ Silur]]. Những loài cá vây thùy đầu tiên trông tương tự như [[lớp Cá mập gai|cá mập gai]] (Acanthodii). Các họ hàng gần nhất của cá vây thùy là [[lớp Cá vây tia|cá vây tia]] (Actinopterygii). Cá vây thùy có lẽ đã tiến hóa trong các đại dương, nhưng sau này chúng đã di chuyển vào các môi trường sống [[nước ngọt]] để tránh các loài cá ăn thịt như [[Placodermi]] - khi đó đang thống trị trong các vùng biển thuộc thời kỳ Tiền - Trung [[kỷ Devon|Devon]]. Do đó cá vây thùy đã tiến hóa trong thời kỳ đầu kỷ Devon, đường phân tách chúng ra thành hai dòng dõi chính - Cá vây tay và [[Rhipidistia]] (cá có phổi và muộn hơn là động vật bốn chân). Nhóm cá vây tay xuất hiện vào đầu kỷ Devon và vẫn sống trong lòng đại dương, thời cực thịnh của cá vây tay là cuối kỷ Devon và [[kỷ Than đá]] do chúng là phổ biến hơn cả vào thời điểm này so với bất kỳ thời kỳ nào khác của [[Liên đại Hiển Sinh]] (''Phanerozoic''). Nhóm [[Rhipidistia]] xuất hiện vào khoảng cùng thời gian đó như cá vây tay, nhưng không giống như cá vây tay, nhóm Rhipidistia rời bỏ các đại dương và di cư vào môi trường sống nước ngọt, tổ tiên của chúng có lẽ sống ở các vùng biển gần [[cửa sông]] (vùng [[nước lợ]]). Rhipidistia lại được phân chia thành hai nhóm chính - [[cá có phổi]] và các loài có dạng của động vật bốn chân (nhóm [[Tetrapodomorpha]]). Sự đa dạng lớn nhất của cá có phổi diễn ra vào [[kỷ Trias]], nhưng ngày nay chỉ còn ít hơn vài chục chi là tồn tại. Cá có phổi đã tiến hóa thành các dạng động vật có phổi nguyên thủy và chân nguyên thủy. Các loài cá có phổi, cổ đại cũng như hiện đại, sử dụng các vây ngắn và mập của chúng (chân nguyên thủy) để vượt qua mặt đất nếu vùng nước của chúng bị cạn kiệt, cũng như sử dụng phổi nguyên thủy để hít thở không khí nhằm lấy đủ lượng [[ôxy]] cần thiết cho hành trình này. Dạng động vật bốn chân về mặt giải phẫu là hoàn toàn tương tự như cá có phổi, họ hàng gần gũi nhất của chúng, nhưng dường như các loài này còn sống trong nước lâu hơn một chút, cho đến cuối kỷ Devon. Nhóm [[Tetrapoda]] - động vật có xương sống với 4 chân là các hậu duệ của nhóm Tetrapodomorpha. Tetrapoda đã xuất hiện vào cuối kỷ Devon.
Cá vây thùy thuộc về nhóm cá xương ([[Siêu lớp Cá xương|Osteichthyes]]), được đặc trưng bởi bộ xương được tạo ra từ chất xương thay vì chất sụn. Các loài cá vây thùy cổ nhất được tìm thấy trong tầng cao nhất của [[kỷ Silur]]. Những loài cá vây thùy đầu tiên trông tương tự như [[lớp Cá mập gai|cá mập gai]] (Acanthodii). Các họ hàng gần nhất của cá vây thùy là [[lớp Cá vây tia|cá vây tia]] (Actinopterygii). Cá vây thùy có lẽ đã tiến hóa trong các đại dương, nhưng sau này chúng đã di chuyển vào các môi trường sống [[nước ngọt]] để tránh các loài cá ăn thịt như [[Cá da phiến|Placodermi]] - khi đó đang thống trị trong các vùng biển thuộc thời kỳ Tiền - Trung [[kỷ Devon|Devon]]. Do đó cá vây thùy đã tiến hóa trong thời kỳ đầu kỷ Devon, đường phân tách chúng ra thành hai dòng dõi chính - Cá vây tay và [[Rhipidistia]] (cá có phổi và muộn hơn là động vật bốn chân). Nhóm cá vây tay xuất hiện vào đầu kỷ Devon và vẫn sống trong lòng đại dương, thời cực thịnh của cá vây tay là cuối kỷ Devon và [[kỷ Than đá]] do chúng là phổ biến hơn cả vào thời điểm này so với bất kỳ thời kỳ nào khác của [[Liên đại Hiển sinh|Liên đại Hiển Sinh]] (''Phanerozoic''). Nhóm [[Rhipidistia]] xuất hiện vào khoảng cùng thời gian đó như cá vây tay, nhưng không giống như cá vây tay, nhóm Rhipidistia rời bỏ các đại dương và di cư vào môi trường sống nước ngọt, tổ tiên của chúng có lẽ sống ở các vùng biển gần [[cửa sông]] (vùng [[nước lợ]]). Rhipidistia lại được phân chia thành hai nhóm chính - [[cá phổi|cá có phổi]] và các loài có dạng của động vật bốn chân (nhóm [[Động vật dạng bốn chân|Tetrapodomorpha]]). Sự đa dạng lớn nhất của cá có phổi diễn ra vào [[kỷ Tam Điệp|kỷ Trias]], nhưng ngày nay chỉ còn ít hơn vài chục chi là tồn tại. Cá có phổi đã tiến hóa thành các dạng động vật có phổi nguyên thủy và chân nguyên thủy. Các loài cá có phổi, cổ đại cũng như hiện đại, sử dụng các vây ngắn và mập của chúng (chân nguyên thủy) để vượt qua mặt đất nếu vùng nước của chúng bị cạn kiệt, cũng như sử dụng phổi nguyên thủy để hít thở không khí nhằm lấy đủ lượng [[ôxy]] cần thiết cho hành trình này. Dạng động vật bốn chân về mặt giải phẫu là hoàn toàn tương tự như cá có phổi, họ hàng gần gũi nhất của chúng, nhưng dường như các loài này còn sống trong nước lâu hơn một chút, cho đến cuối kỷ Devon. Nhóm [[Động vật bốn chân|Tetrapoda]] - động vật có xương sống với 4 chân là các hậu duệ của nhóm Tetrapodomorpha. Tetrapoda đã xuất hiện vào cuối kỷ Devon.


== Phân loại ==
== Phân loại ==
Dòng 40: Dòng 40:
*** Bộ † [[Onychodontida]]
*** Bộ † [[Onychodontida]]
*** Bộ [[Actinistia]]
*** Bộ [[Actinistia]]
**** [[Coelacanthimorpha]] - cá vây tay
**** [[Bộ Cá vây tay|Coelacanthimorpha]] - cá vây tay
**** † ''[[Indocoelacanthus]]''
**** † ''[[Indocoelacanthus]]''
**** † ''[[Spermatodus]]''
**** † ''[[Spermatodus]]''
Dòng 57: Dòng 57:
|label1='''Sarcopterygii'''&nbsp;
|label1='''Sarcopterygii'''&nbsp;
|1={{clade
|1={{clade
|1=?†[[Onychodontiformes]]
|1=?†[[Onychodontida|Onychodontiformes]]
|2=[[Bộ Cá vây tay|Coelacanthinimorpha]] (cá vây tay)
|2=[[Bộ Cá vây tay|Coelacanthinimorpha]] (cá vây tay)
|label3= <font color="white">không&nbsp;tên</font>
|label3= <font color="white">không&nbsp;tên</font>
|3={{clade
|3={{clade
|1=†[[Porolepiformes|Porolepimorpha]]
|1=†[[Porolepiformes|Porolepimorpha]]
|2=[[Dipnoi]] (cá phổi)
|2=[[Cá phổi|Dipnoi]] (cá phổi)
}}
}}
|label4=[[Tetrapodomorpha]]&nbsp;
|label4=[[Động vật dạng bốn chân|Tetrapodomorpha]]&nbsp;
|4={{clade
|4={{clade
|1=†[[Rhizodontimorpha]]
|1=†[[Rhizodontimorpha]]
Dòng 70: Dòng 70:
|2={{clade
|2={{clade
|1=†[[Osteolepiformes|Osteolepimorpha]]
|1=†[[Osteolepiformes|Osteolepimorpha]]
|2=[[Tetrapoda]]
|2=[[Động vật bốn chân|Tetrapoda]]
}}
}}
}}
}}
Dòng 93: Dòng 93:
|1=''[[Styloichthys]]''
|1=''[[Styloichthys]]''
|2={{clade
|2={{clade
|1=[[Tetrapodomorpha]]
|1=[[Động vật dạng bốn chân|Tetrapodomorpha]]
|label2=Dipnomorpha&nbsp;
|label2=Dipnomorpha&nbsp;
|2={{clade
|2={{clade

Phiên bản lúc 02:31, ngày 23 tháng 4 năm 2013

Lớp Cá vây thùy
Thời điểm hóa thạch: Cuối kỷ Silur - gần đây
Cá vây tay (Latimeria chalumnae)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Phân ngành (subphylum)Vertebrata
Phân thứ ngành (infraphylum)Gnathostomata
Liên lớp (superclass)Osteichthyes
Lớp (class)Sarcopterygii
Các phân lớp

Lớp Cá vây thùy (Sarcopterygii) (từ tiếng Hy Lạp sarx: mập mạp (nhiều thịt) và pteryx: vây) là một lớp có vây thùy theo truyền thống, bao gồm cá có phổicá vây tay. Chúng là các nhóm cá xương với các cặp vây tròn. Các cặp vây này, tương tự như các chi (chân), gợi ý rằng các loại cá này có thể là tổ tiên của động vật bốn chân trên đất liền.

Phần lớn các nhà phân loại học mà tán thành cách tiếp cận kiểu miêu tả theo nhánh còn gộp trong phạm vi nhóm này cả siêu lớp Tetrapoda, là nhóm bao gồm tất cả các loài động vật có xương sống với bốn chân (tứ chi). Các vây-chi của cá vây thùy thể hiện sự tương tự rất lớn với các chi của các dạng tổ tiên (được cho là như thế) của động vật bốn chân, vì thế trong nhiều tài liệu khoa học về sinh vật người ta cho rằng chúng là tổ tiên trực tiếp của động vật bốn chân một cách rộng khắp.

Đặc trưng

Nhóm cá vây thùy đầu tiên - Crossopterygii - là cá xương với các vây dày thịt, phân thùy thành cặp đôi, kết nối với cơ thể bằng một xương duy nhất[1] Các vây của Crossopterygii khác với vây của các loài cá khác ở chỗ mỗi vây được sinh ra trên một cuống dày cùi thịt, giống như thùy, có vảy, kéo dài ra từ thân. Các vây ngực và vây chậu có các khớp giống như khớp chân của Tetrapoda. Các vây này đã tiến hóa thành chân của các động vật bốn chân đầu tiên là Amphibia. Chúng cũng có 2 vây lưng với phần gốc tách biệt, khác với một vây lưng duy nhất của Actinopterygii (cá vây tia). Hộp sọ của Sarcoptergygii nguyên thủy có 1 đường khớp nối, nhưng nó đã mất đi ở Tetrapoda và cá phổi. Nhiều loài cá vây thùy đầu tiên có đuôi đối xứng. Tất cả các loài cá vây thùy đều có răng được men răng thật sự che phủ.

Các nhà phân loại học nào đi theo cách tiếp cận của miêu tả theo nhánh học đều gộp nhóm Tetrapoda vào trong phạm vi nhóm cá vây thùy, mà tới lượt nó lại bao gồm toàn bộ các loài động vật có xương sống với 4 chân[2]. Các vây dạng chi của các loài Sarcopterygii như cá vây tay (Coelacanthiformes) thể hiện sự tương tự rất mạnh khi so với dạng tổ tiên được dự kiến của các chi của Tetrapoda. Crossopterygii dường như đã phát triển theo 2 nhánh khác biệt và tương ứng với điều đó được chia ra thành 2 phân lớp, là Rhipidistia (bao gồm cả Dipnoi hay cá phổi, và Tetrapodomorpha trong đó có Tetrapoda) và Actinistia (cá vây tay).

Tiến hóa của cá vây thùy

Sự hình thành loài của động vật có xương sống cuối kỷ Devon cho thấy cá vây thùy (Sarcopterygii) như Panderichthys có các hậu duệ như Eusthenopteron có thể hít thở không khí trong các đám bùn lầy và nông, sau đó là Tiktaalik mà các vây tựa như chân của chúng có thể giúp chúng bò lên mặt đất, khởi đầu cho những động vật lưỡng cưbốn chân đầu tiên, chẳng hạn như Acanthostega với các chân có 8 ngón hay Ichthyostega với các chân đã phát triển, sinh sống trong các đầm lầy đầy cỏ dại. Cá vây thùy cũng tiến hóa thành các loài Coelacanthiformes còn sống sót cho đến ngày nay.

Cá vây thùy thuộc về nhóm cá xương (Osteichthyes), được đặc trưng bởi bộ xương được tạo ra từ chất xương thay vì chất sụn. Các loài cá vây thùy cổ nhất được tìm thấy trong tầng cao nhất của kỷ Silur. Những loài cá vây thùy đầu tiên trông tương tự như cá mập gai (Acanthodii). Các họ hàng gần nhất của cá vây thùy là cá vây tia (Actinopterygii). Cá vây thùy có lẽ đã tiến hóa trong các đại dương, nhưng sau này chúng đã di chuyển vào các môi trường sống nước ngọt để tránh các loài cá ăn thịt như Placodermi - khi đó đang thống trị trong các vùng biển thuộc thời kỳ Tiền - Trung Devon. Do đó cá vây thùy đã tiến hóa trong thời kỳ đầu kỷ Devon, đường phân tách chúng ra thành hai dòng dõi chính - Cá vây tay và Rhipidistia (cá có phổi và muộn hơn là động vật bốn chân). Nhóm cá vây tay xuất hiện vào đầu kỷ Devon và vẫn sống trong lòng đại dương, thời cực thịnh của cá vây tay là cuối kỷ Devon và kỷ Than đá do chúng là phổ biến hơn cả vào thời điểm này so với bất kỳ thời kỳ nào khác của Liên đại Hiển Sinh (Phanerozoic). Nhóm Rhipidistia xuất hiện vào khoảng cùng thời gian đó như cá vây tay, nhưng không giống như cá vây tay, nhóm Rhipidistia rời bỏ các đại dương và di cư vào môi trường sống nước ngọt, tổ tiên của chúng có lẽ sống ở các vùng biển gần cửa sông (vùng nước lợ). Rhipidistia lại được phân chia thành hai nhóm chính - cá có phổi và các loài có dạng của động vật bốn chân (nhóm Tetrapodomorpha). Sự đa dạng lớn nhất của cá có phổi diễn ra vào kỷ Trias, nhưng ngày nay chỉ còn ít hơn vài chục chi là tồn tại. Cá có phổi đã tiến hóa thành các dạng động vật có phổi nguyên thủy và chân nguyên thủy. Các loài cá có phổi, cổ đại cũng như hiện đại, sử dụng các vây ngắn và mập của chúng (chân nguyên thủy) để vượt qua mặt đất nếu vùng nước của chúng bị cạn kiệt, cũng như sử dụng phổi nguyên thủy để hít thở không khí nhằm lấy đủ lượng ôxy cần thiết cho hành trình này. Dạng động vật bốn chân về mặt giải phẫu là hoàn toàn tương tự như cá có phổi, họ hàng gần gũi nhất của chúng, nhưng dường như các loài này còn sống trong nước lâu hơn một chút, cho đến cuối kỷ Devon. Nhóm Tetrapoda - động vật có xương sống với 4 chân là các hậu duệ của nhóm Tetrapodomorpha. Tetrapoda đã xuất hiện vào cuối kỷ Devon.

Phân loại

Phân loại dưới đây lấy theo Benton (2004), và sử dụng một tổng hợp của phân loại kiểu Linnaeus dựa trên cấp bậc, phản ánh các mối quan hệ tiến hóa. Benton đưa siêu lớp Tetrapoda vào trong phân lớp Sarcopterygii nhằm phản ánh mối quan hệ rằng cho rằng Tetrapoda là hậu duệ trực tiếp của cá vây thùy, mặc dù nhóm Tetrapoda được gán ở cấp bậc phân loại cao hơn[3]

Phát sinh chủng loài

Cá vây tay là những loài cá vây thùy duy nhất còn sống trong lòng đại dương.

Biểu đồ phát sinh chủng loài trình bày dưới đây dựa theo các nghiên cứu do Philippe Janvier và ctv tiến hành cho Tree of Life Web Project[4]

Sarcopterygii 

?†Onychodontiformes

Coelacanthinimorpha (cá vây tay)

<font color="white">không tên

Porolepimorpha

Dipnoi (cá phổi)

Tetrapodomorpha 

Rhizodontimorpha

<font color="white">không tên

Osteolepimorpha

Tetrapoda

Biểu đồ dưới đây lấy theo Ahlberg (1991), Cloutier & Ahlberg (1996), Zhu Yu & Janvier (1999) và Zhu Yu, Wang Zhao & Jia (2006)[5]

Sarcopterygii 

?Diabolepis

?Langdenia

Meemannia

?Psarolepis

Onychodontida

Coelacanthinimorpha (Actinistia)

Choanata (Rhipidistia) 

Styloichthys

Tetrapodomorpha

Dipnomorpha 

Porolepiformes

Dipnoiformes 

?Psarolepis

Dipnoiformes

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Clack J. A. (2002) Gaining Ground: The Origin and Evolution of Tetrapods. Nhà in Đại học Indiana, ISBN 9780253340542.
  2. ^ Nelson, Joseph S. (2006). Fish of the World. John Wiley & Sons, Inc. ISBN 0-471-25031-7.
  3. ^ Benton M.J. (2004). Vertebrate Paleontology. Ấn bản lần thứ 3, 472 trang, Blackwell Science Ltd, ISBN 978-0-632-05637-8
  4. ^ Janvier Philippe. 1997. Vertebrata. Animals with backbones. Phiên bản 1-1-1997. trong The Tree of Life Web Project
  5. ^ Sarcopterygii trong Mikko's Phylogeny Archive.