Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trấn Bình đài”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 8: Dòng 8:
* Hào rộng 32m và sâu 4,25m.
* Hào rộng 32m và sâu 4,25m.


Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung. Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn [[súng đại bác]] và kho [[đạn]] (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên.
Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung. Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn súng [[đại bác]] và kho [[đạn]] (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên.


Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này đươc trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này đươc trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Dòng 16: Dòng 16:
Dọc theo mặt trong của vòng thành phụ, có tất cả 6 hệ thống bậc cấp dùng để đi lên tường thành, mỗi hệ thống bậc cấp rộng 3,35m. Trấn Bình đài ban đầu (1805) được đắp bằng đất, đến thời Gia Long và Minh Mạng, hai mặt của nó mới được xây ốp bằng gạch.
Dọc theo mặt trong của vòng thành phụ, có tất cả 6 hệ thống bậc cấp dùng để đi lên tường thành, mỗi hệ thống bậc cấp rộng 3,35m. Trấn Bình đài ban đầu (1805) được đắp bằng đất, đến thời Gia Long và Minh Mạng, hai mặt của nó mới được xây ốp bằng gạch.


Trong quá trình xâm lấn chủ quyền với triều đình Huế, người Pháp đã tìm cách chiếm hữu Trấn Bình đài kể từ sau vụ đánh chiếm [[Trấn Hải thành]] vào năm 1883. Vì yếu thế, triều đình [[nhà Nguyễn]] phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân theo tinh thần điều V của Hiệp ước Patenôtre (1884). Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm 1886, Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình [[Đồng Khánh]] nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần đất mà họ thủ đắc trong [[Thành Nội]]. Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là ''Mang Cá Nhỏ'' và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là ''Mang Cá Lớn''.
Trong quá trình xâm lấn chủ quyền với triều đình Huế, người Pháp đã tìm cách chiếm hữu Trấn Bình đài kể từ sau vụ đánh chiếm [[trấn Hải Thành]] vào năm 1883. Vì yếu thế, triều đình [[nhà Nguyễn]] phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân theo tinh thần điều V của Hiệp ước Patenôtre (1884). Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm 1886, Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình [[Đồng Khánh]] nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần đất mà họ thủ đắc trong [[Đại Nội|Thành Nội]]. Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là ''Mang Cá Nhỏ'' và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là ''Mang Cá Lớn''.


==Xem thêm==
==Xem thêm==

Phiên bản lúc 07:42, ngày 19 tháng 5 năm 2008

Tại góc đông bắc kinh thành Huế, bên ngoài cửa Trấn Bình có một vòng thành riêng xây từ năm Gia Long thứ 4 (1805) gọi là đài Thái Bình, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đổi thành Trấn Bình đài, dân gian gọi là đồn Mang Cá[1].

Cấu trúc

Trấn Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc Kinh thành Huế được xây dựng theo kiểu Vauban:

  • Chu vi 1.048m,
  • Tường thành cao 5,10m dày gần 15m
  • Phòng lộ chạy dọc theo ngoài chân tường thành rộng khoảng 7,50m
  • Hào rộng 32m và sâu 4,25m.

Trấn Bình đài là cái pháo đài thứ 25 của Kinh thành Huế, đây là một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một đoạn hào chung. Lúc trước, nơi đây được xây những bệ cao để đặt 3 giàn súng đại bác và kho đạn (hỏa dược khố), điếm canh. Trấn Bình môn và Trường Định môn là hai "ám đạo" để vào Trấn Bình Đài, những cửa này chỉ trổ xuyên qua thân tường thành, chứ không xây vọng lâu ở bên trên.

Trấn Bình môn không nằm ở phạm vi của Trấn Bình đài, mà nằm thuộc vòng tường thành của Kinh thành. Cửa này đươc trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.

Cửa Trường Định được trổ ra ở giữa hông phía nam Trấn Bình đài. Cửa này có kích thước nhỏ hẹp hơn so với các cửa của Kinh thành; lối đi chỉ rộng 2m và vòm cửa chỉ cao 3m. Cửa này được dùng cho quân lính phòng thủ ở thành phụ đi ra ngoài thành để phản kích trên những đoạn thành giai ở chung quanh nó và lân cận thuộc mé đông thành chính.

Dọc theo mặt trong của vòng thành phụ, có tất cả 6 hệ thống bậc cấp dùng để đi lên tường thành, mỗi hệ thống bậc cấp rộng 3,35m. Trấn Bình đài ban đầu (1805) được đắp bằng đất, đến thời Gia Long và Minh Mạng, hai mặt của nó mới được xây ốp bằng gạch.

Trong quá trình xâm lấn chủ quyền với triều đình Huế, người Pháp đã tìm cách chiếm hữu Trấn Bình đài kể từ sau vụ đánh chiếm trấn Hải Thành vào năm 1883. Vì yếu thế, triều đình nhà Nguyễn phải nhường Trấn Bình đài cho quân đội Pháp đóng quân theo tinh thần điều V của Hiệp ước Patenôtre (1884). Lúc đó, nơi đây vẫn được gọi là "thành Mang Cá", nhưng vào năm 1886, Toàn quyền Paul Bert lại ép triều đình Đồng Khánh nhường thêm một khu đất ở bên trong góc đông bắc của Kinh thành để quân đội Pháp xây dựng thêm doanh trại, đồn bót, bệnh xá, nhà nguyện.v.v... Người Pháp còn xây một bức tường thành bằng đá và gạch cao để ngăn cách riêng biệt phần đất mà họ thủ đắc trong Thành Nội. Do đó, để phân biệt sự khác nhau giữa hai địa phận ấy, nhân dân địa phương đã gọi Trấn Bình đài là Mang Cá Nhỏ và khu đất mới nhường thêm ở trong góc Đông Bắc của kinh thành là Mang Cá Lớn.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Từ sau năm 1883 đất làng Thừa Thiên bên trong cửa Trấn Bình trở thành nhượng địa cho người Pháp ở ngay sau kinh thành Phú Xuân Huế, toàn bộ khu vực này đều gọi là Mang Cá, gồm Mang Cá nhỏ (Đài Trấn Bình) và Mang Cá lớn (đất nhượng địa ở làng Thừa Thiên) nay thuộc phường Thuận Lộc thành phố Huế.

Tham khảo