Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dương Thiệu Tước”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
MCNM (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 18: Dòng 18:
'''Dương Thiệu Tước''' ([[1915]]–[[1995]]) là một [[nhạc sĩ]] [[Nhạc tiền chiến|tiền chiến]] nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của [[tân nhạc Việt Nam]].
'''Dương Thiệu Tước''' ([[1915]]–[[1995]]) là một [[nhạc sĩ]] [[Nhạc tiền chiến|tiền chiến]] nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của [[tân nhạc Việt Nam]].


Dương Thiệu Tước sinh ngày [[15 tháng 5]] năm [[1915]], quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ [[Ứng Hòa]], tỉnh [[Hà Đông (tỉnh Việt Nam)|Hà Đông]]. Xuất thân trong gia đình [[Nho học]] truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình [[Dương Khuê]], nguyên Đốc học [[Nam Định]].
Dương Thiệu Tước sinh ngày [[15 tháng 5]] năm [[1915]], quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ [[Ứng Hòa]], tỉnh [[Hà Đông (tỉnh Việt Nam)|Hà Đông]] (nay thuộc [[Hà Nội]]). Xuất thân trong gia đình [[Nho học]] truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình [[Dương Khuê]], nguyên Đốc học [[Nam Định]].


Thuở nhỏ ông học ở [[Hà Nội]], trong [[thập niên 1930]] ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử [[Nhóm Myosotis|Myosotis]] (Hoa lưu ly) gồm [[Thẩm Oánh]], [[Lê Yên]], [[Vũ Khánh]]... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc "bài Tây theo điệu ta", những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng [[tiếng Pháp]]. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: „Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền“.
Thuở nhỏ ông học ở [[Hà Nội]], trong [[thập niên 1930]] ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử [[Nhóm Myosotis|Myosotis]] (Hoa lưu ly) gồm [[Thẩm Oánh]], [[Lê Yên]], [[Vũ Khánh]]... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc "bài Tây theo điệu ta", những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng [[tiếng Pháp]]. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: „Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền“.

Phiên bản lúc 14:22, ngày 13 tháng 12 năm 2008

Bản mẫu:Nhạc sĩ Việt Nam

Dương Thiệu Tước (19151995) là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam.

Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong gia đình Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định.

Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, trong thập niên 1930 ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc "bài Tây theo điệu ta", những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: „Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền“.

Ông vào Nam sinh sống từ năm 1954. Tại Sài Gòn ông làm chủ sự phòng văn nghệ tại Đài phát thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy lục huyền cầm/Tây Ban Cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau ngày nước Việt Nam thống nhất năm 1975, nhạc của ông bị cấm đoán và ông cũng bị mất chỗ dạy học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc.

Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái vẫn sống tại ĐứcHoa Kỳ. Vợ sau của ông là Minh Trang, một danh ca nổi tiếng thập niên 1950. Đầu thập niên 1980 ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận Bình Thạnh và được bà chăm lo cho tuổi về chiều.

Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, sau thời đổi mới, nhạc của ông đã được phép lưu hành trên toàn cõi Việt Nam.

Những sáng tác nổi tiếng

  • Áng Mây Chiều
  • Bến Xuân Xanh
  • Bóng Chiều Xưa
  • Cánh Bằng Lướt Gió
  • Chiều, phổ thơ Hồ Dzếnh
  • Đêm Tàn Bến Ngự
  • Kiếp Hoa
  • Ngọc Lan
  • Ôi Quê Xưa
  • Ơn Nghĩa Sinh Thành
  • Thuyền Mơ
  • Tiếng Xưa
  • Ước Hẹn Chiều Thu

Liên kết ngoài