Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sa thạch”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tuhan (thảo luận | đóng góp)
Tuhan (thảo luận | đóng góp)
Dòng 50: Dòng 50:
*[http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/Default.aspx?param=1E50aWQ9Mjk5NDAmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1leGFjdCZrZXl3b3JkPUMlYzMlODFUK0slZTElYmElYmVU&page=1 Cát kết] trên Bách khoa Toàn thư Việt Nam
*[http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/Default.aspx?param=1E50aWQ9Mjk5NDAmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1leGFjdCZrZXl3b3JkPUMlYzMlODFUK0slZTElYmElYmVU&page=1 Cát kết] trên Bách khoa Toàn thư Việt Nam


[[Thể loại:Thạch học]]
[[Thể loại:Đá trầm tích]]
[[Thể loại:Đá trầm tích]]
[[Thể loại:Cát]]
[[Thể loại:Cát]]

Phiên bản lúc 04:50, ngày 9 tháng 2 năm 2009

Đá cát gần Stadtroda, Đức.

Cát kết hay sa thạch (đá cát) là một loại đá trầm tích chứa chủ yếu là fenspatthạch anh có màu sắc đa dạng (tương tự như là cát), với các màu như xám, vàng, đỏ và trắng. Do đá cát thông thường tạo ra các vách đá dễ nhận thấy và các hình khối tự nhiên bằng đá khác nên màu sắc của đá cát có thể coi giống hệt như là màu sắc của khu vực đó. Ví dụ, phần lớn khu vực miền tây Bắc Mỹ được biết đến là có màu đỏ do đá cát màu đỏ ở đây.

Cát kết thông thường tương đối mềm và dễ gia công, vì thế chúng là loại vật liệu xây dựng và vật liệu lát đường phổ biến. Do độ cứng của các hạt riêng rẽ và tính đồng nhất của kích thước hạt, cũng như bản chất dễ vụn của đá cát nên nó là khoáng chất được ưa chuộng để sản xuất đá mài (làm sắc lưỡi dao và các dụng cụ khác).

Các hình khối tự nhiên bằng đá mà chủ yếu chứa đá cát thông thường cho nước thấm qua và là đủ xốp để lưu trữ một lượng lớn nước, điều này làm cho chúng trở thành lớp ngậm nước quan trọng. Các lớp ngậm nước hạt mịn, chẳng hạn như đá cát, là thích hợp để lọc bỏ các chất gây ô nhiễm từ bề mặt hơn nhiều so với các loại đá có các vết nứt và các kẽ hở như đá vôi hay các loại đá khác bị đứt gãy do các hoạt động địa chấn.

Nguồn gốc

Đá cát xếp thành lớp

Cát kết là đá trầm tích hạt trong nguồn gốc (khác với các loại đá hữu cơ, như đá phấn hay than). Chúng được tạo thành từ các hạt bị gắn kết mà các hạt này lại có thể là các mảnh vỡ của đá đã tồn tại trước đó hoặc là đơn tinh thể của các khoáng vật. Các chất kết dính hay còn gọi là xi măng gắn kết có tác dụng gắn các hạt này với nhau chủ yếu là canxit, các khoáng vật sét và các khoáng vật silicát. Kích thước các hạt cát trong đá cát nằm trong khoảng 0,1 mm tới 2 mm. (Các loại đá với kích thước hạt nhỏ hơn, bao gồm bột kếtđá sét. Các loại đá có kích thước hạt lớn hơn, bao gồm đá dăm kếtsỏi kết và được gọi chung là cuội kết).

Cơ cấu cơ bản để hình thành đá cát là quá trình trầm tích hóa các hạt ra khỏi các chất lỏng, chẳng hạn nước trong sông, hồ hay biển. Môi trường của quá trình trầm tích là quyết định trong việc xác định các đặc trưng của đá cát được tạo ra, trong thang độ nhỏ bao gồm kích thước hạt, sự phân loại, thành phần và trong thang độ lớn hơn như cấu hình không gian của đá. Các môi trường chủ yếu của quá trình trầm tích là môi trường đất liền và môi trường biển, được chia ra thành các nhóm chủ yếu sau:

  • Môi trường đất liền
    1. Sông
    2. Hồ
  • Môi trường biển
    1. Cát bờ biển
    2. Châu thổ
    3. Turbidit

Các loại đá cát

Đá cát chứa thạch anh

Khi các đặc trưng địa chất của đá cát đã được thiết lập, chúng có thể thuộc một trong 3 nhóm như sau:

  • Đá cát acco, có hàm lượng fenspat cao (>25%).
  • Đá cát thạch anh, có hàm lượng thạch anh cao (>90%). Đôi khi đá cát thuộc loại này được gọi là "orthoquartzit", ví dụ Quartzit Tuscarora của các khu vực thuộc dãy núi An pơ.
  • Đá cát đất sét, chẳng hạn đá xám greywacke, có hàm lượng đất sétđất bùn đáng kể.

Đá dholpur màu be, rajpura màu hồng, marson màu đồng và khatu màu gỗ tếch là một số loại đá cát.

Xem thêm

Liên kết ngoài