Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Việt – Chiêm (1069)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Diễn biến: chỉ có "thiên triều" mới nhất định gọi là Giao Chỉ :D
Dòng 28: Dòng 28:


==Diễn biến==
==Diễn biến==
Năm 1068 vua [[Lý Thánh Tông]] sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành [[Phật Thệ]] tới [[Giao Chỉ]] bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua [[nhà Tiền Lê]] trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, [[Lý Thường Kiệt]] được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là [[Lý Thường Hiến]] giữ chức Tán kỵ Võ úy.
Năm 1068 vua [[Lý Thánh Tông]] sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành [[Phật Thệ]] tới [[Đại Việt]] bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua [[nhà Tiền Lê]] trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, [[Lý Thường Kiệt]] được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là [[Lý Thường Hiến]] giữ chức Tán kỵ Võ úy.


Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi [[Ỷ Lan]] và [[Thái sư]] [[Lý Đạo Thành]] trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi [[Thăng Long]] các đạo quân Việt đã có mặt ở [[Nghệ An]], ba ngày sau tới phía Nam [[núi Hồng Lĩnh]] ([[Hà Tĩnh]]), vào hải phận Champa.
Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi [[Ỷ Lan]] và [[Thái sư]] [[Lý Đạo Thành]] trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi [[Thăng Long]] các đạo quân Việt đã có mặt ở [[Nghệ An]], ba ngày sau tới phía Nam [[núi Hồng Lĩnh]] ([[Hà Tĩnh]]), vào hải phận Champa.

Phiên bản lúc 07:20, ngày 4 tháng 3 năm 2009

Chiến dịch phạt Chiêm 1069
Thời gian1069
Địa điểm
Vương quốc Champa
Kết quả Đại Việt thắng, chiếm được 3 châu của Vương quốc Champa
Tham chiến
Đại Việt Champa
Chỉ huy và lãnh đạo
Lý Thánh Tông
Lý Thường Kiệt
Lý Thường Hiến
Chế Củ
Bố Bì Đà La
Lực lượng
30.000-50.000 18.000-20.000
Thương vong và tổn thất
Không rõ Không rõ

Chiến dịch phạt Chiêm 1069 là tên gọi của cuộc chiến do nhà Lý phát động năm 1069 nhằm tấn công Vương quốc Champa ở phương Nam với lý do người Chăm từ chối thần phục nhà Lý.

Hoàn cảnh lịch sử

Từ khi Đại Việt giành được độc lập (thế kỷ thứ 10) việc đánh Chiêm Thành thường được các vua Lý tiến hành mỗi khi Chiêm Thành bỏ việc tiến cống và thông sứ hoặc quấy nhiễu các vùng biên giới trên bộ và ven biển Đại Việt.

Năm Giáp Thân (1044), Lý Thái Tông đã đánh Chiêm Thành vì nước này bỏ thông hiếu, phá quốc đô Phật Thệ và giết chúa Xạ Đẩu.

Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1065 - 1069, Champa bỏ cống. Vua Thánh Tông lại đem quân Nam chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc đánh Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách mở rộng biên giới, dựa vào chỗ Champa có tinh thần bất khuất chống đối đối với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống[1].

Quốc vương Chế Củ (Rudravarman III) muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước tiến của Đại Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ, ban cho ngựa trắng và cho phép họ mua lúaQuảng Châu, Champa không tiếp tục nạp cống nữa. Mọi hành động của Champa đều bị người Việt cho là khiêu khích họ[2].

Diễn biến

Năm 1068 vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành Phật Thệ tới Đại Việt bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua nhà Tiền Lê trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy.

Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi Ỷ LanThái sư Lý Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long các đạo quân Việt đã có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau tới phía Nam núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), vào hải phận Champa.

(Sử chép ngày Canh Thân tới Nam giới, rồng nổi lên ở đầu thuyền Kim Phượng như lúc xuất chinh, Lý triều vốn tin nhiều dị đoan cho là điềm tốt. Điểm này có tính cách hoang đường. Có lẽ sử thần bịa đặt ra để tô điểm cho bản triều thuở đó).

Năm ngày sau Lý Thường Kiệt tới cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy quân Champa. Tại Nhật Lệ, một nhóm nhỏ thủy quân Chăm xông ra chặn giặc. Tướng của quân Lý là Hoảng Kiệt đánh lui họ rồi tiến về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của quân Đại Việt là tiến thẳng tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt quốc vương. Bốn ngày sau nữa tới cửa Tư Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và sông thuộc Quy Nhơn ngày nay. Quân Lý mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ Thăng Long đến đấy.

Thành Phật Thệ (sau gọi là Chà Bàn hay là Đồ Bàn) ở vào địa phận tỉnh Bình Định ngày nay, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây. Tướng Chăm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ. (Xem thêm: trận Tu Mao)

Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô Champa. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng[3].

Vua đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, nghe tin Nguyên phi Ỷ Lan giúp việc trong cung cấm, mà lòng dân hòa vui, liền nói rằng: "Một người đàn bà mà làm được như thế, đánh Chiêm Thành mà không hạ được, thì bọn con trai ta dùng làm gì được". Lại đi đánh nữa, mới thu phục được[4].

Lý Thường Kiệt đem quân truy tầm theo phía Nam. Tháng tư quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp, qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà tiếng Chăm gọi là Panduranga. Tháng 4 Nguyên soái Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp. Vua Chăm vốn có cựu thù với nước Chân Lạp (xem thêm: Lịch sử Campuchia) nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết một tháng.

Người có công lớn nhất trong cuộc đại thắng này của nhà Lý là Lý Thường Kiệt.

Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chăm, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy. Trước khi về nước Thánh Tông còn không quên sai đếm tất cả nhà của dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660 căn đều thiêu rụi sạch[3].

Ngày 19 tháng 6 năm Quý Tỵ, thuyền của quân Lý về đến cửa Tư Minh, có lẽ là Tư Dung. Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long. Vua lên bộ ngự trên xe, quân thần cỡi ngựa theo sau. Vua Chăm mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 tên lính Võ đô dắt. Quyến thuộc đi sau cũng bị trói. Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma LinhĐịa Lý để chuộc tội nên ông được tha về.

Từ thời Lê Đại Hành đến Lý Thánh Tông tuy có việc đánh Chăm nhưng chỉ là việc bắt người lấy của nhưng chưa hề có việc bành trướng đất đai. Có lẽ do dân cư ở miền đồng bằng Bắc Việt bắt đầu đông đảo, lương thực đã thiếu hụt[5].

Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu vua Lý dâng trình việc thắng trận. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi của Đại Việt.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Việt Sử toàn thư, tr 141
  2. ^ Việt Sử toàn thư, tr 141
  3. ^ a b Đại Việt Sử Lược - Quyển II-p 52
  4. ^ Việt Sử Tiêu Án - THÁNH TÔN HOÀNG ĐẾ
  5. ^ Việt Sử Toàn Thư p 143