Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sấu (thực vật)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
hình, lk bài con
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5: Dòng 5:
| image_width = 220px
| image_width = 220px
| regnum = [[Thực vật|Plantae]]
| regnum = [[Thực vật|Plantae]]
| divisio = [[Thực vật có hoa|Magnoliophyta]]
| unranked_divisio = [[Thực vật có hoa|Angiospermae]]
| classis = [[Thực vật hai lá mầm|Magnoliopsida]]
| unranked_classis = [[Thực vật hai lá mầm thật sự|Eudicots]]
| ordo = [[Bộ Bồ hòn|Sapindales]]
| ordo = [[Bộ Bồ hòn|Sapindales]]
| familia = [[Họ Đào lộn hột|Anacardiaceae]]
| familia = [[Họ Đào lộn hột|Anacardiaceae]]

Phiên bản lúc 04:46, ngày 25 tháng 4 năm 2009

Sấu
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
Bộ (ordo)Sapindales
Họ (familia)Anacardiaceae
Chi (genus)Dracontomelon
Loài (species)D. duperreanum
Danh pháp hai phần
Dracontomelon duperreanum
Pierre

Cây sấu hay sấu tía, sấu trắng hoặc long cóc (danh pháp khoa học: Dracontomelon duperreanum) là một loài cây sống lâu năm, lá thường xanh/bán rụng lá thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae)

Mô tả

Cây có thể cao tới 30 m. Cành nhỏ có cạnh và có lông nhung màu xám tro. Lá mọc so le, hình lông chim dài 30-45 cm, với 11-17 lá chét mọc so le. Phiến lá chét hình trái xoan, đầu nhọn gốc tròn, dài 6-10 cm, rộng 2,5-4 cm, dai, nhẵn, mặt dưới có gân nổi rõ. Cụm hoa thuộc loại hoa chùm, mọc ở ngọn hay gần ngọn; hoa nhỏ, màu trắng xanh, có lông mềm. Quả là loại quả hạch hình cầu hơi dẹt, đường kính khoảng 2 cm, khi chín màu vàng sẫm; chứa một hạt. Ra hoa vào mùa xuân - và có quả vào mùa hè - thu, quả được thu hái vào giai đoạn tháng 7 đến tháng 9. Quả dùng tươi để nấu canh hay lấy cùi thịt của quả để làm tương giấm hay mứt sấu, ô mai, sấu dầm v.v. Nó cũng có một số tác dụng trong điều trị một số chứng bệnh và được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông. Xem thêm bài quả sấu.

Thành phần hóa học

Quả sấu chín chứa 80% nước, 1% axít hữu cơ, 1,3% protein, 8,2% gluxit, 2,7% xenluloza, 0,8% tro, 100 mg% canxi, 44 mg% phốtpho, sắt và 3mg % vitamin C.

Tại Việt Nam

Các cây mọc trong rừng thuộc loại bán rụng lá, trên đất đỏ sâu hoặc sâu trung bình, ở cao độ từ khoảng 0-600 m trong khu vực Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên tới vùng đồng bằng ven biển và cao nguyên Trung Bộ; ít gặp ở vùng Nam Bộ. Cây cũng hay được trồng ở nhiều nơi để lấy bóng mát và lấy quả, ưa trồng ở nơi đất cát pha.

Liên kết ngoài