Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Tám Mươi Năm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: AlphamaEditor, General Fixes
OctraBot (thảo luận | đóng góp)
n Thay thế ‘(?mi)\{\{(Liên kết chọn lọc|Link FA)\|.+?\}\}\n?’ bằng ‘’.: deprecated template
Dòng 35: Dòng 35:
[[Thể loại:Chiến tranh liên quan tới Pháp]]
[[Thể loại:Chiến tranh liên quan tới Pháp]]
[[Thể loại:Chiến tranh liên quan tới Cộng hòa Hà Lan]]
[[Thể loại:Chiến tranh liên quan tới Cộng hòa Hà Lan]]

{{Link FA|nds-nl}}
{{Link FA|nl}}
{{Link FA|ro}}

Phiên bản lúc 05:26, ngày 7 tháng 3 năm 2015

Chiến tranh Tám mươi Năm

Quân tiếp viện Tây Ban Nha sau khi Leiden thất thủ, 1574
Thời gian1568–1648
Địa điểm
Vùng đất trũng
(Xung đột tại các thuộc địa trên toàn cầu)
Kết quả Hà Lan thắng lợi
Hòa ước Münster
Cộng hòa Hà Lan giành độc lập
Tây Ban Nha tiếp tục giành quyền cai trị vùng đất miền nam Hà Lan
Tham chiến
Cộng hòa Hà Lan Cộng hòa Hà Lan
 Vương quốc Anh
Nassau
Huguenots
 Pháp
Tây Ban Nha Đế quốc Tây Ban Nha
Đế quốc La Mã Thần thánh Thánh chế La Mã

Chiến tranh Tám mươi Năm hay còn được gọi là Chiến trành giành Độc lập Hà Lan (1568–1648)[1] là một cuộc nổi dậy của mười bảy tỉnh chống lại Felipe II của Tây Ban Nha, người cai trị Hà Lan thuộc Nhà Habsburg.

Trong giai đoạn đầu, Felipe II triển khai quân đội của mình và đập tan quân phiến loạn và giành lấy lại quyền kiểm soát tại hầu hết các tỉnh nổi dậy. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Willem xứ Orange, các tỉnh miền Bắc tiếp tục kháng cự và đánh bại quân đội của hoàng tộc Habsburg, và thành lập Cộng hòa của bảy tỉnh Hà Lan. Sau đó cuộc chiến tiếp tục diễn ra, mặc dù cương thổ của họ không còn bị đe dọa. Chiến tranh kết thúc năm 1648 với việc Hòa ước Münster được ký kết, và nước Cộng hòa Hà Lan được chính thức công nhận là quốc gia độc lập.

Nguyên nhân bùng nổ

Thời trung đại, lãnh thổ Hà Lan bị chia thành một số lãnh địa phong kiến, một số thuộc Pháp, một số thuộc Ðức. Cuối thế kỷ mười lăm, họ Habsburg đã giành quyền cai tri trên toàn vùng đất này. Lúc Carlos I của Tây Ban Nha còn sống, vùng đất Hà Lan vẫn còn nắm một vị trí nhất định, nhưng khi Felippe II lên ngôi, Hà Lan được xem như một lãnh địa phụ thuộc chặt chẽ vào Tây Ban Nha. Mọi quyền hành trong nước đều nằm trong tay toàn quyền Tây Ban Nha là Marguerite và viên phụ chính là Hồng y Granvella.

Trên lãnh vực tôn giáo, Tây Ban Nha đã thi hành một chính sách đàn áp tôn giáo khốc liệt, đặc biệt là Tân giáo. Các hệ phái Tin Lành phát sinh từ cuộc Cải cách đều bị cấm đoán, bao gồm phong trào Lutheran của Martin Luther, phong trào Anabaptist của Menno Simons và tư tưởng Cải cách của Jean Calvin. Chính quyền Tây Ban Nha đã lập ra tòa án tôn giáo ở Hà Lan để xét xử các tín đồ theo đạo Tin Lành. Tuy chính quyền ban hành các sắc lệnh cấm đạo và những cuộc hành hình ngày càng nhiều, nhưng số người theo Tin Lành ngày càng đông.

Chú thích

  1. ^ The Dutch States-General, for dramatic effect, decided to promulgate the ratification of the Peace of Münster (which was actually ratified by them on ngày 15 tháng 5 năm 1648) on the 80th anniversary of the execution of the Counts of Egmont and Horne, ngày 5 tháng 6 năm 1648. See Maanen, H. van (2002), Encyclopedie van misvattingen, Boom, trang 68, ISBN 90-5352-834-2.

Tham khảo