Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lâm Quang Thơ”
→Binh nghiệp: clean up, replaced: Trung uý → Trung úy using AWB |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
} |
|||
{{văn phong|chấm phẩy in nghiêng lung tung}} |
|||
'''Lâm Quang Thơ''' (1931-1985), nguyên là một tướng lĩnh |
'''Lâm Quang Thơ''' (1931-1985), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] mang quân hàm [[Thiếu tướng]]. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia được sự hỗ trợ của Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra tại nam cao nguyên Trung phần. Ra trường ông được chọn về binh chủng Thiết giáp. Ông đã phục vụ trong ngành chuyên môn của mình một thời gian dài. Sau đó ông được chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Chỉ huy Sư đoàn bộ binh. |
||
==Tiểu sử & |
==Tiểu sử & Binh nghiệp== |
||
Ông sinh ngày 8 tháng 2 năm 1931 tại Vĩnh Trạch, [[Bạc Liêu]], miền tây Nam phần, Việt Nam trong một gia đình điền chủ khá giả. Song thân là cụ Lâm Quang Diệu và cụ Diệp Thị Hiền. |
|||
Ông còn hai người em cùng là sĩ quan trung và cao cấp trong [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực]]: Ông [[Lâm Quang Thi]] (khóa 3 Võ bị Đà Lạt, nguyên Trung tướng Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I) và ông Lâm Quang Thới (khóa 10 Võ bị Đà Lạt, nguyên Thiếu tá Không quân). |
|||
Tướng '''Lâm Quang Thơ''' sinh ngày 8-2-1931 tại [[Vĩnh Trạch]], [[Bạc Liêu]]. |
|||
*Là Trưởng nam của hai Cụ: [[Lâm Quang Diệu]] ''(Luật sư)'' & [[Diệp Thị Hiền]] ''(từ trần năm 2002 tại San José. Hưởng thọ 93 tuổi)''. |
|||
⚫ | |||
Thời niên thiếu, ông học chương trình tiểu học tại Bạc Liêu, lên trung học tại trường Phan Thanh Giản, Càn Thơ. Năm 1949, tốt nghiệp trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). |
|||
-Các em: |
|||
*Trung tướng [[Lâm Quang Thi]] (1932) ''(Tư lệnh Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I, định cư Hoa Kỳ)''. |
|||
*Trung tá [[Lâm Quang Thới]] (1933-2001) ''(Tốt nghiệp khoá 10 Võ bị Liên quân Đà Lạt (VBLQĐL). Quân trấn trưởng [[Biên Hoà]]. Định cư Hoa Kỳ 1995, từ trần 2001 tại San José, California)''. |
|||
*Thiếu tá [[Lâm Quang Thân]](1936) ''(Tốt nghiệp khoá 14 Võ bị Quốc gia VN (VBQGVN). Ra trường, phục vụ trong Quân chủng Không Quân. Định cư California, Hoa Kỳ 1975, đã từ trần tại nơi định cư)''. |
|||
==Học vấn== |
|||
⚫ | Tháng 9 năm 1950, ông cùng người em kế (Lâm Quang Thi) tình nguyện nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc gia''' trong Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/121.319. Cả hai đều trúng tuyển theo học khoá 3 [[Trần Hưng Đạo]] tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt ''(khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950, mãn khoá ngày 1 tháng 7 năm 1951)''. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường, về binh chủng Kỵ binh ông được tiếp tục theo học khóa căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Viễn đông của Quân đội Liên hiệp Pháp ở [[Vũng Tàu]]. Cuối năm 1952, ông được làm Chi đội trưởng trong Trung đoàn Thám thính xa. Qua đầu năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung úy]] lên giữ chức chỉ huy phó Đại đội Thám thính. |
||
*Học sinh Trường Tiểu học Bạc Liêu. |
|||
⚫ | |||
*Học sinh [[Trường trung học Phan Thanh Giản (Cần Thơ)|Trường Trung học Phan Thanh Giản]], [[Cần Thơ]]. Tốt nghiệp Tú tài. |
|||
Tháng 4 năm 1955, sau khi chuyển sang cơ cấu mới là [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] ông được thăng cấp [[Đại úy]] làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thám thính. Tháng 9 cùng năm, ông được cử làm Chỉ huy trưởng đầu tiên Trung đoàn 4 Kỵ binh Thiết giáp, đồn trú tại Huế (Trung đoàn 4 được thành lập ngày 1 tháng 9 năm 1955 tại Đà Nẵng gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 10 Thám thính cùng thành phần còn lại của Trung đoàn 3 đã giải tán). Qua đầu năm 1956, được lệnh bàn giao Trung đoàn 4 lại cho Đại úy Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 1 Thủ Đức). Sau đó, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định chỉ huy Trung đoàn 2 Thiết giáp đồn trú tại Mỹ Tho, thay thế Thiếu tá Trần Thanh Phú. |
|||
==Binh nghiệp== |
|||
⚫ | Đầu năm 1958, được lệnh bàn giao chức Trung đoàn 2 lại cho Đại úy [[Nguyễn Duy Hinh]] để về phục vụ tại Bộ chỉ huy Thiết giáp. Tháng giêng năm 1959, ông tái nhiệm chỉ huy Trung đoàn 2 thay lại cho Thiếu Tá Hinh đi du học khoá chỉ huy và tham mưu tại Hoa Kỳ. Qua năm 1960, ông được kiêm nhiệm chức Tỉnh trưởng [[Định Tường]]. Đến năm 1962, bàn giao chức Tinh trưởng Định Tường lại cho Trung tá Trần Hoàng Quân. Đầu năm 1963, bàn giao Trung đoàn 2 lại cho Thiếu tá [[Lý Tòng Bá]]. |
||
⚫ | |||
⚫ | Giữa tháng 9 năm 1964, ông được thăng cấp [[Trung tá]] làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 5 chiến xa M.24 ở Sài Gòn thay thế Trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Tháng 11 cùng năm, ông được chỉ định kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp thay thế Trung tá [[Nguyễn Văn Toàn]]. Tháng 12 cuối năm, Chỉ huy trưởng cuộc hành quân Hùng Vương 2, tảo thanh vùng Bình Giả thuộc tỉnh Phước Tuy. |
||
⚫ | |||
Giữa tháng 3 năm 1965 (Chiến đoàn 5 cải danh thành Trung đoàn 5, di chuyển từ Sài Gòn về Long Khánh), ông kiêm nhiệm chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp Trung ương được tái lập tại trường Thiết giáp ở Liên trường Võ khoa Thủ Đức (Bộ chỉ huy Thiết giáp tạm thời giải tán vào ngày 15 tháng 11 năm 1964). |
|||
Năm 1955: Tháng 4, thăng [[Đại úy]] làm Đại đội trưởng Đại đội Thám Thính. Tháng 9, Trung đoàn trưởng (TRĐT) Trung đoàn (TRĐ) 4 Kỵ binh Thiết giáp (KBTG) đầu tiên, đồn trú tại Huế ''(thành lập 1-9-1955 tại [[Đà Nẵng]] gồm: Tiểu đoàn (TĐ) 2 & TĐ 10 Thám thính cùng thành phần còn lại của TRĐ 3 đã giải tán)''. |
|||
:''Trong cùng một thời điểm, ông được giữ và kiêm nhiệm 3 chức vụ: Chỉ huy Trung đoàn, trường Huấn luyện và Bộ chỉ huy Thiết giáp. |
|||
⚫ | Cũng trong năm 1965, tháng 4 ông nhận lệnh bàn giao chức Chỉ huy trường Thiết giáp lại cho Trung tá Nguyễn Tuấn. Cuối tháng 5 kế đó, ông được thăng cấp [[Đại tá]]. Tháng 8 cùng năm, bàn giao Trung đoàn 5 lại cho Trung tá [[Trần Quang Khôi]] (nguyên Trung đoàn phó). Đầu tháng 9 kế tiếp, bàn giao chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp tại trại Phù Đổng, Gò Vấp lại cho Trung tá Lương Bùi Tùng, để đi nhận chức vụ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế Chuẩn tướng [[Nguyễn Văn Kiểm]] được cử về Trung ương làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống. |
||
Tháng 11 năm 1966, ông nhận lệnh bàn giao trường Võ bị Quốc gia lại cho Đại tá Đỗ Ngọc Nhận. Ngay sau đó ông được cử đi làm Chỉ huy trưởng trường [[Trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Hạ sĩ quan Đồng Đế]] thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Là]]. Qua đầu năm 1967, bàn giao trường Hạ sĩ quan lại cho Đại tá Phạm Văn Liễu. Tháng 4 cùng năm, ông được chỉ định giữ chức Chỉ huy trưởng [[Trường Bộ binh Thủ Đức]] thay thế Thiếu tướng [[Bùi Hữu Nhơn]] được cử làm phó Chủ tịch Uỷ ban Điều hành Quốc tế Quân viện. |
|||
:''Trong thời gian Chỉ huy trường Thủ Đức, ông đã tổ chức lễ mãn khóa cho các khóa 23, 24, 25, 26 và 27 sĩ quan trừ bị. |
|||
Ngày 19 tháng 6 năm 1968, ông được vinh thăng hàm [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Qua tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao trường Bộ binh lại cho Thiếu tướng [[Phạm Quốc Thuần]]. Cùng ngày, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 18 bộ binh thay thế Chuẩn tướng [[Đỗ Kế Giai]]. |
|||
⚫ | Ngày 20 tháng 8 năm 1970, ông được vinh thăng hàm [[Thiếu tướng]] tại nhiệm. Đến tháng 4 năm 1972, nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Đại tá [[Lê Minh Đảo]] (nguyên Tỉnh trưởng Định Tường). Sau đó, ông được cử tái nhiệm Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế bào đệ là Trung tướng [[Lâm Quang Thi]] được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn I và Quân khu 1. |
||
⚫ | |||
⚫ | |||
⚫ | |||
Sau ngày 30 tháng 4, ông và gia đình định cư tại Texas, Hoa kỳ. |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
Năm 1965: ''Đầu tháng 3, CĐ 5 CX M24 cải danh thành TRĐ 5 TG, di chuyển từ SG về [[Long Khánh]]''). Giữa tháng 3: kiêm CHT BCH TGB tái lập tại Trường TG ở LTVKTĐ ''(BCH TGB được giải tán ngày 15-11-1964'', Tái Lập 15-3-1965)''. Tháng 4: Bàn giao chức CHT trường TG lại cho Trung tá [[Nguyễn Tuấn]] ''(1931-1968, sinh quán: [[Nam Định]], Đại úy(1959), Thiếu Tá(1961), Trung tá(1964). Ngày 31-1-1968 Mậu thân, bị đối phương sát hại cùng với cả gia đình gồm vợ và 6 người con. Được truy thăng Đại tá)''. |
|||
==Gia đình== |
|||
⚫ | |||
⚫ | Cuối tháng 5 |
||
Năm 1966: Tháng 11, bàn giao chức CHT trường VBQGVN lại cho Đại tá [[Đỗ Ngọc Nhận]] ''(sau là Tổng cục phó [[Tổng cục Quân huấn]])''. Ngay sau đó đi làm CHT [[Trường Hạ sĩ quan HSQ QLVNCH]] ''(Đồng Đế)'' thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Văn Là]]. |
|||
Năm 1967: Đầu năm, bàn giao Chức CHT Trường HSQ QLVNCH lại cho Đại tá [[Phạm Văn Liễu]] ''(sau là Tham vấn Hoà đàm Paris)''. Tháng 4: CHT Trường [[Bộ binh Thủ Đức]] (BBTĐ) thay thế Thiếu tướng [[Bùi Hữu Nhơn]] đi làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Điều hành Quốc tế Quân viện. Năm 1968: Vinh thăng [[Chuẩn tướng]]. Tháng 8-1969: Bàn giao chức CHT Trường BBTĐ lại cho Thiếu tướng [[Phạm Quốc Thuần]] ''(nguyên TL SĐ 5 Bộ binh)''. Cùng ngày đi làm TL SĐ 18 BB thay thế Chuẩn tướng [[Đỗ Kế Giai]]. |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
⚫ | |||
⚫ | |||
==Tham khảo== |
==Tham khảo== |
Phiên bản lúc 01:16, ngày 8 tháng 9 năm 2015
} Lâm Quang Thơ (1931-1985), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mang quân hàm Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia được sự hỗ trợ của Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra tại nam cao nguyên Trung phần. Ra trường ông được chọn về binh chủng Thiết giáp. Ông đã phục vụ trong ngành chuyên môn của mình một thời gian dài. Sau đó ông được chuyển sang lĩnh vực Quân huấn và Chỉ huy Sư đoàn bộ binh.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh ngày 8 tháng 2 năm 1931 tại Vĩnh Trạch, Bạc Liêu, miền tây Nam phần, Việt Nam trong một gia đình điền chủ khá giả. Song thân là cụ Lâm Quang Diệu và cụ Diệp Thị Hiền.
Ông còn hai người em cùng là sĩ quan trung và cao cấp trong Quân lực: Ông Lâm Quang Thi (khóa 3 Võ bị Đà Lạt, nguyên Trung tướng Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I) và ông Lâm Quang Thới (khóa 10 Võ bị Đà Lạt, nguyên Thiếu tá Không quân).
Thời niên thiếu, ông học chương trình tiểu học tại Bạc Liêu, lên trung học tại trường Phan Thanh Giản, Càn Thơ. Năm 1949, tốt nghiệp trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Tháng 9 năm 1950, ông cùng người em kế (Lâm Quang Thi) tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia trong Liên hiệp Pháp, mang số quân: 51/121.319. Cả hai đều trúng tuyển theo học khoá 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950, mãn khoá ngày 1 tháng 7 năm 1951). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, về binh chủng Kỵ binh ông được tiếp tục theo học khóa căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Viễn đông của Quân đội Liên hiệp Pháp ở Vũng Tàu. Cuối năm 1952, ông được làm Chi đội trưởng trong Trung đoàn Thám thính xa. Qua đầu năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy lên giữ chức chỉ huy phó Đại đội Thám thính.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Tháng 4 năm 1955, sau khi chuyển sang cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa ông được thăng cấp Đại úy làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Thám thính. Tháng 9 cùng năm, ông được cử làm Chỉ huy trưởng đầu tiên Trung đoàn 4 Kỵ binh Thiết giáp, đồn trú tại Huế (Trung đoàn 4 được thành lập ngày 1 tháng 9 năm 1955 tại Đà Nẵng gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 10 Thám thính cùng thành phần còn lại của Trung đoàn 3 đã giải tán). Qua đầu năm 1956, được lệnh bàn giao Trung đoàn 4 lại cho Đại úy Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 1 Thủ Đức). Sau đó, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chỉ định chỉ huy Trung đoàn 2 Thiết giáp đồn trú tại Mỹ Tho, thay thế Thiếu tá Trần Thanh Phú.
Đầu năm 1958, được lệnh bàn giao chức Trung đoàn 2 lại cho Đại úy Nguyễn Duy Hinh để về phục vụ tại Bộ chỉ huy Thiết giáp. Tháng giêng năm 1959, ông tái nhiệm chỉ huy Trung đoàn 2 thay lại cho Thiếu Tá Hinh đi du học khoá chỉ huy và tham mưu tại Hoa Kỳ. Qua năm 1960, ông được kiêm nhiệm chức Tỉnh trưởng Định Tường. Đến năm 1962, bàn giao chức Tinh trưởng Định Tường lại cho Trung tá Trần Hoàng Quân. Đầu năm 1963, bàn giao Trung đoàn 2 lại cho Thiếu tá Lý Tòng Bá.
Giữa tháng 9 năm 1964, ông được thăng cấp Trung tá làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 5 chiến xa M.24 ở Sài Gòn thay thế Trung tá Dương Hiếu Nghĩa. Tháng 11 cùng năm, ông được chỉ định kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp thay thế Trung tá Nguyễn Văn Toàn. Tháng 12 cuối năm, Chỉ huy trưởng cuộc hành quân Hùng Vương 2, tảo thanh vùng Bình Giả thuộc tỉnh Phước Tuy.
Giữa tháng 3 năm 1965 (Chiến đoàn 5 cải danh thành Trung đoàn 5, di chuyển từ Sài Gòn về Long Khánh), ông kiêm nhiệm chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp Trung ương được tái lập tại trường Thiết giáp ở Liên trường Võ khoa Thủ Đức (Bộ chỉ huy Thiết giáp tạm thời giải tán vào ngày 15 tháng 11 năm 1964).
- Trong cùng một thời điểm, ông được giữ và kiêm nhiệm 3 chức vụ: Chỉ huy Trung đoàn, trường Huấn luyện và Bộ chỉ huy Thiết giáp.
Cũng trong năm 1965, tháng 4 ông nhận lệnh bàn giao chức Chỉ huy trường Thiết giáp lại cho Trung tá Nguyễn Tuấn. Cuối tháng 5 kế đó, ông được thăng cấp Đại tá. Tháng 8 cùng năm, bàn giao Trung đoàn 5 lại cho Trung tá Trần Quang Khôi (nguyên Trung đoàn phó). Đầu tháng 9 kế tiếp, bàn giao chức Chỉ huy trưởng Thiết giáp tại trại Phù Đổng, Gò Vấp lại cho Trung tá Lương Bùi Tùng, để đi nhận chức vụ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế Chuẩn tướng Nguyễn Văn Kiểm được cử về Trung ương làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống.
Tháng 11 năm 1966, ông nhận lệnh bàn giao trường Võ bị Quốc gia lại cho Đại tá Đỗ Ngọc Nhận. Ngay sau đó ông được cử đi làm Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Qua đầu năm 1967, bàn giao trường Hạ sĩ quan lại cho Đại tá Phạm Văn Liễu. Tháng 4 cùng năm, ông được chỉ định giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức thay thế Thiếu tướng Bùi Hữu Nhơn được cử làm phó Chủ tịch Uỷ ban Điều hành Quốc tế Quân viện.
- Trong thời gian Chỉ huy trường Thủ Đức, ông đã tổ chức lễ mãn khóa cho các khóa 23, 24, 25, 26 và 27 sĩ quan trừ bị.
Ngày 19 tháng 6 năm 1968, ông được vinh thăng hàm Chuẩn tướng tại nhiệm. Qua tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao trường Bộ binh lại cho Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần. Cùng ngày, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 18 bộ binh thay thế Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai.
Ngày 20 tháng 8 năm 1970, ông được vinh thăng hàm Thiếu tướng tại nhiệm. Đến tháng 4 năm 1972, nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Đại tá Lê Minh Đảo (nguyên Tỉnh trưởng Định Tường). Sau đó, ông được cử tái nhiệm Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế bào đệ là Trung tướng Lâm Quang Thi được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn I và Quân khu 1.
1975
Ngày 21 tháng 3 năm 1975 di tản khỏi Đà Lạt cùng với toàn thể cơ hữu và khoá sinh của trường Võ bị di chuyển về trường Bộ binh tại Long Thành.
Sau ngày 30 tháng 4, ông và gia đình định cư tại Texas, Hoa kỳ.
Năm 1985, ông từ trần tại San Francisco, California. Hưởng dương 54 tuổi.
Gia đình
- Phu nhân: Bà Trương Thị Hui. Ông bà có 4 người con gồm 2 trai, 2 gái.
Tham khảo
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) [cần số trang]