Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhiễm sắc thể Y”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 6: Dòng 6:


== Tác động và tiến hóa ==
== Tác động và tiến hóa ==
Trong nhân tế bào nhiễm sắc thể Y kết hợp với [[nhiễm sắc thể X]], nhưng nó chỉ tổ hợp ở hai đầu của nhiễm sắc thể Y, phần khá lớn còn lại của nhiễm sắc thể Y là vùng ''không tái tổ hợp'', thường ký hiệu là Y-DNA. Ở [[con người]] vùng này vào cỡ 95%. Vì thế vùng [[ADN]] không tái tổ hợp trong nhiễm sắc thể Y được truyền từ cha sang con, và phân tích của Y-DNA do đó có thể được sử dụng trong nghiên cứu phả hệ.
Trong nhân tế bào nhiễm sắc thể Y kết hợp với [[nhiễm sắc thể X]], nhưng nó chỉ tổ hợp ở hai đầu của nhiễm sắc thể Y, phần khá lớn còn lại của nhiễm sắc thể Y là vùng ''không tái tổ hợp'', thường ký hiệu là Y-DNA. Ở [[con người]] vùng này vào cỡ 95%. Vì thế vùng [[ADN]] không tái tổ hợp trong nhiễm sắc thể Y được truyền nguyên vẹn từ cha sang con. Nếu có biến dị xảy ra ở vùng [[ADN]] không tái tổ hợp, thì biến dị này truyền cho con cháu trực hệ không bị lẫn với các phả hệ khác. Do đó phân tích của Y-DNA được sử dụng trong nghiên cứu phả hệ dòng đực.


Với một sự khác biệt 30% về gen giữa con người và [[tinh tinh]], nhiễm sắc thể Y là một trong những bộ phận phát triển nhanh nhất của bộ gen người.
Với một sự khác biệt 30% về gen giữa con người và [[tinh tinh]], nhiễm sắc thể Y là một trong những bộ phận phát triển nhanh nhất của bộ gen người.

Phiên bản lúc 02:16, ngày 8 tháng 9 năm 2015

Nhiễm sắc thể Y là một trong hai nhiễm sắc thể xác định giới tính, và nó xác định giới tính đực. Nó có mặt trong hầu hết các loài động vật có vú, bao gồm cả con người, và nhiều loài khác. Ở động vật có vú, nó có chứa gen SRY, dẫn đến sự phát triển tinh hoàn nếu có. Nhiễm sắc thể Y của con người bao gồm khoảng 50 triệu cặp cơ sở.

Phát hiện

Nhiễm sắc thể Y được xác định là một nhiễm sắc thể xác định giới tính bởi Nettie Stevens tại Bryn Mawr College vào năm 1905 trong một nghiên cứu của ấu trùng bọ cánh cứng Tenebrio molitor. Edmund Beecher Wilson khám phá ra cơ chế tương tự cùng năm đó một cách độc lập. Stevens đã đề xuất rằng các nhiễm sắc thể luôn luôn tồn tại theo cặp và nhiễm sắc thể Y là cặp với nhiễm sắc thể X được phát hiện vào năm 1890 bởi Hermann Henking. Bà nhận ra rằng ý tưởng trước đây của Clarence McClung, nhiễm sắc thể X xác định giới tính là sai và xác định giới tính đó, trong thực tế, do sự hiện diện hoặc vắng mặt của nhiễm sắc thể Y. Stevens đặt tên là nhiễm sắc thể "Y" đơn giản chỉ để theo từ Henking "X" theo thứ tự abc.

Tác động và tiến hóa

Trong nhân tế bào nhiễm sắc thể Y kết hợp với nhiễm sắc thể X, nhưng nó chỉ tổ hợp ở hai đầu của nhiễm sắc thể Y, phần khá lớn còn lại của nhiễm sắc thể Y là vùng không tái tổ hợp, thường ký hiệu là Y-DNA. Ở con người vùng này vào cỡ 95%. Vì thế vùng ADN không tái tổ hợp trong nhiễm sắc thể Y được truyền nguyên vẹn từ cha sang con. Nếu có biến dị xảy ra ở vùng ADN không tái tổ hợp, thì biến dị này truyền cho con cháu trực hệ và không bị lẫn với các phả hệ khác. Do đó phân tích của Y-DNA được sử dụng trong nghiên cứu phả hệ dòng đực.

Với một sự khác biệt 30% về gen giữa con người và tinh tinh, nhiễm sắc thể Y là một trong những bộ phận phát triển nhanh nhất của bộ gen người.

Hình ảnh

Chỉ dẫn

Tham khảo

Xem thêm

Liên kết ngoài