Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Shinkansen”
n clean up, replaced: {{Commonscat → {{thể loại Commons using AWB |
Việt-hóa |
||
Dòng 3: | Dòng 3: | ||
[[Tập tin:Shinkansen0-n700.jpg|nhỏ|Shinkansen 0 ~ N700]] |
[[Tập tin:Shinkansen0-n700.jpg|nhỏ|Shinkansen 0 ~ N700]] |
||
'''Shinkansen''''(新幹線; âm [[Từ Hán-Việt|Hán Việt]]: '''tân cán tuyến''') là một hệ thống [[đường sắt cao tốc]] ở [[Nhật Bản]] do 4 tập đoàn [[ |
'''Shinkansen''''(新幹線; âm [[Từ Hán-Việt|Hán Việt]]: '''tân cán tuyến''') là một hệ thống [[đường sắt cao tốc]] ở [[Nhật Bản]] do 4 tập đoàn [[đường sắt]] của Nhật Bản điều hành. Kể từ khi đoạn đường sắt cao tốc đầu tiên mang tên [[Tōkaidō Shinkansen]] (Đông Hải đạo tân cán tuyến) khánh thành năm [[1964]] có thể chạy với [[tốc độ]] 210 [[kilômét trên giờ|km/h]] (130 [[dặm/h]]), mạng lưới đường sắt này (dài 2.459 km hay 1.528 dặm) được phát triển dần, nối liền các [[thành phố]] lớn của Nhật Bản trên các đảo [[Đảo Honshu|Honshū]] và [[Kyushu|Kyūshū]]. Tốc độ tối đa sau này tăng lên đến 300 km/h (186 dặm/h) mặc dù hoạt động trong một môi trường thường hay bị [[động đất]] và [[bão lớn]]. Theo định nghĩa của Bộ luật xây dựng hệ thống Shinkansen (全国新幹線鉄道整備法) thì trên những tuyến đường sắt này, tàu có thể chạy với tốc độ trên 200 km/h. |
||
Hiện nay những chuyến tàu thương mại E5 có thể đạt tốc độ 320 km/h như đoạn đường giữa thị trấn Utsunomiya và Morioka trên tuyến [[Tohoku Shinkansen]]. Tốc độ thử nghiệm đạt 443 km/h (275 dặm/h) cho loại tàu thường vào năm [[1996]]. Còn đối với [[tàu maglev]] thì là 581 km/h (361 dặm/h), phá [[Kỷ lục thế giới]] vào năm [[2003]]. Hiện tại công ty JR Central đang chuẩn bị khởi công tuyến Chuo Shinkansen nối [[thủ đô]] [[Tokyo]] và [[thủ phủ]] [[Nagoya]] (286 km) với công nghệ đệm từ, dự định hoàn thành vào năm 2027 nhằm rút ngắn thời gian đi lại giữa hai thành phố này xuống còn 40 [[phút]]. |
|||
''Shinkansen'' tức "Tân cán tuyến" (có nghĩa là "đường huyết mạch mới") nhằm phân biệt với đường sắt khổ hẹp (1.067mm) đang được sử dụng chạy song song với nó. Theo như luật về Xây dựng hệ thống Shinkansen(全国新幹線鉄道整備法) thì đường sắt Shinkansen được định nghĩa là tuyến đường sắt mà ở những đoạn chính tàu có khả năng chạy với tốc độ trên 200 km/h. |
|||
'''Shinkansen''' tức "Tân cán tuyến" (có nghĩa là "đường huyết mạch mới") nhằm phân biệt với đường sắt khổ hẹp (1.067mm) bấy lâu dùng ở Nhật. Những tuyến đường sắt cao tốc này chạy song song với hệ thống đường sắt cũ nhưng biệt lập, không trùng nhau ở đoạn nào cả. Đây cũngn là một đặc điểm nổi bật của Shinkansen khác biệt so với các hệ thống đường sắt cao tốc của [[Pháp]] ([[TGV]]) và [[Đức]] ([[ICE]]). Dựa trên nguyên tắc này, shinkansen không bị đường sắt khác cắt ngang, giảm thiểu tai nạn tàu hỏa đâm nhau. Hơn nữa vì có đường riêng nên tàu hỏa shinkansen và toa xe thiết kế khá nhẹ để có thể tận dụng vận tốc tối đa nhưng ngược lại dễ bị hư hại nếu va chạm (crashworthiness). |
|||
== Lịch sử == |
== Lịch sử == |
||
Nhật Bản là quốc gia đầu tiên xây dựng đường sắt riêng biệt |
[[Nhật Bản]] là quốc gia đầu tiên xây dựng đường sắt riêng biệt cho tàu cao tốc. Do địa hình đồi núi, tuyến hiện tại bao gồm các tuyến có [[đường sắt khổ hẹp|khổ hẹp]] (1.067mm), nhìn chung theo tuyến gián tiếp và không thể sửa lại cho phù hợp với tốc độ cao. Kết quả là Nhật Bản đã có nhu cầu lớn cho các tuyến cao tốc nhiều hơn các quốc gia đã có [[đường sắt khổ tiêu chuẩn|khổ đường sắt tiêu chuẩn]] hay [[khổ rộng]] hiện hữu có tiềm năng nâng cấp. |
||
{{đường sắt cao tốc}} |
{{đường sắt cao tốc}} |
||
{{thể loại Commons|Shinkansen}} |
{{thể loại Commons|Shinkansen}} |
Phiên bản lúc 00:14, ngày 28 tháng 9 năm 2015
Shinkansen'(新幹線; âm Hán Việt: tân cán tuyến) là một hệ thống đường sắt cao tốc ở Nhật Bản do 4 tập đoàn đường sắt của Nhật Bản điều hành. Kể từ khi đoạn đường sắt cao tốc đầu tiên mang tên Tōkaidō Shinkansen (Đông Hải đạo tân cán tuyến) khánh thành năm 1964 có thể chạy với tốc độ 210 km/h (130 dặm/h), mạng lưới đường sắt này (dài 2.459 km hay 1.528 dặm) được phát triển dần, nối liền các thành phố lớn của Nhật Bản trên các đảo Honshū và Kyūshū. Tốc độ tối đa sau này tăng lên đến 300 km/h (186 dặm/h) mặc dù hoạt động trong một môi trường thường hay bị động đất và bão lớn. Theo định nghĩa của Bộ luật xây dựng hệ thống Shinkansen (全国新幹線鉄道整備法) thì trên những tuyến đường sắt này, tàu có thể chạy với tốc độ trên 200 km/h.
Hiện nay những chuyến tàu thương mại E5 có thể đạt tốc độ 320 km/h như đoạn đường giữa thị trấn Utsunomiya và Morioka trên tuyến Tohoku Shinkansen. Tốc độ thử nghiệm đạt 443 km/h (275 dặm/h) cho loại tàu thường vào năm 1996. Còn đối với tàu maglev thì là 581 km/h (361 dặm/h), phá Kỷ lục thế giới vào năm 2003. Hiện tại công ty JR Central đang chuẩn bị khởi công tuyến Chuo Shinkansen nối thủ đô Tokyo và thủ phủ Nagoya (286 km) với công nghệ đệm từ, dự định hoàn thành vào năm 2027 nhằm rút ngắn thời gian đi lại giữa hai thành phố này xuống còn 40 phút.
Shinkansen tức "Tân cán tuyến" (có nghĩa là "đường huyết mạch mới") nhằm phân biệt với đường sắt khổ hẹp (1.067mm) bấy lâu dùng ở Nhật. Những tuyến đường sắt cao tốc này chạy song song với hệ thống đường sắt cũ nhưng biệt lập, không trùng nhau ở đoạn nào cả. Đây cũngn là một đặc điểm nổi bật của Shinkansen khác biệt so với các hệ thống đường sắt cao tốc của Pháp (TGV) và Đức (ICE). Dựa trên nguyên tắc này, shinkansen không bị đường sắt khác cắt ngang, giảm thiểu tai nạn tàu hỏa đâm nhau. Hơn nữa vì có đường riêng nên tàu hỏa shinkansen và toa xe thiết kế khá nhẹ để có thể tận dụng vận tốc tối đa nhưng ngược lại dễ bị hư hại nếu va chạm (crashworthiness).
Lịch sử
Nhật Bản là quốc gia đầu tiên xây dựng đường sắt riêng biệt cho tàu cao tốc. Do địa hình đồi núi, tuyến hiện tại bao gồm các tuyến có khổ hẹp (1.067mm), nhìn chung theo tuyến gián tiếp và không thể sửa lại cho phù hợp với tốc độ cao. Kết quả là Nhật Bản đã có nhu cầu lớn cho các tuyến cao tốc nhiều hơn các quốc gia đã có khổ đường sắt tiêu chuẩn hay khổ rộng hiện hữu có tiềm năng nâng cấp.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Shinkansen. |