Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Thiện (chuẩn tướng)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tập tin NguyenVanThien.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài viết vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Jameslwoodward vì lý do: Commons:Deletion requests/Files uploaded by Hoàng Đình Thảo - Using
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5: Dòng 5:
| nơi sinh= Thừa Thiên
| nơi sinh= Thừa Thiên
| nơi mất= Đà Nẵng
| nơi mất= Đà Nẵng
| hình= [[Tập|150px]]
| hình=
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1952-1970
| năm phục vụ= 1952-1970

Phiên bản lúc 23:40, ngày 29 tháng 11 năm 2015

Nguyễn Văn Thiện
Sinh1928
Thừa Thiên
Mất1970
Đà Nẵng
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1952-1970
Quân hàm
Đơn vịBinh chủng Thiết giáp
Quân đoàn I
Chỉ huyQuân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Công việc khácThị trưởng

Nguyễn văn Thiện (1928-1970), nguyên là một tướng lĩnh thuộc ngành Thiết-Kỵ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khoá đầu tiên ở trường Sĩ Quan Trừ bị được Quân đội Pháp hỗ trợ cho Chính phủ Quốc gia mở ra tại miền Nam Việt Nam với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Sau một thời gian phục vụ Binh chủng Thiết-Kỵ, ông được chuyển sang phục vụ ở lĩnh vực Chỉ huy & Tham mưu cấp Quân đoàn và Biệt khu. Năm 1970, ông bị tử nạn và mất tích.

Tiểu sử và Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 6-1928 tại Phú Vang, Thừa Thiên, Trung phần Việt Nam. Ông đã tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Huế với văn bằng Tú tài 1.

Năm 1952: Thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 48/104.136. Theo học khoá 2 Phụng Sự tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (khai giảng: 1/10/1952, mãn khoá: 1/4/1953). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được chọn về ngành Thiết giáp-Kỵ binh và được cử đi thụ huấn khoá Trung đội trưởng Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông của Quân đội Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 7 năm 1953, mãn khoá về đơn vị ông được giữ chức Chi đội trưởng Thiết giáp, đồn trú tại An Nông, Huế. Qua năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy và được cử làm Chi đoàn trưởng Chi đoàn 2 Thám thính.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Năm 1955: Đầu năm, ông được biệt phái sang Tiểu đoàn 2 Danh dự Huế, giữ chức Trung đội trưởng Thiết giáp hộ tống (gồm 4 xe Thiết giáp AM). Sau khi Quân đội Quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hoà, cuối năm này ông thăng cấp Đại úy và được cử đi du học khoá Thiết giáp cao cấp tại Trường Thiết giáp Saumur, Pháp.

Năm 1956: Trung tuần tháng 3, ông được chỉ định làm Trưởng phòng Lục quân thuộc Nha Nhân viên Bộ Quốc phòng thay thế Thiếu tá Nguyễn Sĩ Túc. Tháng 10 cùng năm ông được đặc cách thăng cấp Thiếu tá.

Năm 1958: Đầu năm, ông nhận lệnh bàn giao chức Trưởng phòng Lục quân lại cho Đại úy Trần Ngọc Thống. Tháng 5 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm vào chức vụ Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp thay thế Trung tá Hoàng Xuân Lãm được cử đi du học lớp Chỉ huy & Tham mưu tại Hoa Kỳ.

Năm 1963: Ngày 1/11, trong cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông được mời họp ở văn phòng Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm Tham mưu trưởng Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu và bị giữ luôn ở phòng họp số 1, trước khi cuộc đảo chính khởi sự để cho kế hoạch đảo chính được giữ bí mật. Ngày 3/11 ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Sang tháng 12 cuối năm này, ông được lệnh bàn giao chức Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp lại cho Đại tá Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp.

Năm 1964: Đầu tháng 2, ông được cử vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn I và Vùng 1 chiến thuật do Thiếu tướng Tôn Thất Xứng làm Tư lệnh. Tháng 3 cùng năm, ông kiêm nhiệm chức Thị trưởng Đà Nẵng thay thế Trung tá Trần Ngọc Châu.

Năm 1966: Ông được lệnh bàn giao chức vụ Thị trưởng Đà Nẵng lai cho Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn. Sau đó được cử vào chức vụ Tư lệnh Biệt khu Quảng Nam, Đà Nẵng (Quảng-Đà).

Năm 1970: Ngày 1/11, ông nhận được quyết định vinh thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

Tử nạn

Ngày 3/11/1970, trên đường bay bằng phi cơ A.37 từ Đà Nẵng vào Sài Gòn để dự lễ gắn cấp bậc Chuẩn tướng cho chính mình tại Dinh Độc lập, ông bị mất tích. Hưởng dương 42 tuổi.

Sau tai nạn, một số các đơn vị thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa qua nhiều ngày nỗ lực tìm kiếm thi hài và máy bay mất tích, từ miền núi đến bờ biển dọc theo lộ trình nhưng không có kết quả.

  • Cùng mất tích với ông còn có: Đại úy Bùi Văn Lợi, sĩ quan hoa tiêu (Sinh năm 1939, xuất thân khoá 17 Võ bị Đà Lạt).

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)