1.334
lần sửa đổi
n (đã xóa Thể loại:Người Việt Nam; đã thêm Thể loại:Người Sài Gòn dùng HotCat) |
|||
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= Nguyễn Văn Minh
|
| ngày
| ngày mất= 24-11-2006
| nơi
| nơi mất= Hoa Kỳ
| thuộc= [[Hình: GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1951-1975
| cấp bậc= [[Hình: US-O9 insignia.svg|35px]] [[Trung tướng]]
| đơn vị= Sư đoàn 21 bộ binh<br/>Quân đoàn III VNCH<br/>Trường Bộ binh Thủ Đức<br/>Biệt khu Thủ Đô
| chỉ huy= Quân đội Quốc gia<br/>Quân lực Việt Nam Cộng hòa
| công việc khác= Tỉnh trưởng<br/>Thanh tra QLVNCH
}}
'''Nguyễn Văn Minh''' (1929-2006) nguyên là
==Thân thế và bước đầu binh nghiệp==
Ông sinh vào tháng 2 năm 1929 tại [[Sài Gòn]] trong một gia đình khá giả. Ông đã tốt nghiệp Trung học Đệ nhị cấp.
Ông sinh vào tháng 2 năm 1929 tại [[Sài Gòn]]. Năm 1951, ông được lệnh động viên nhập ngũ vào [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]. Do từng tốt nghiệp Trung học đệ nhị cấp, ông được cho đi theo học khoá 4 Lý Thường Kiệt Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp tháng 12 năm 1951 với cấp bậc [[Thiếu úy]], ông được bổ nhiệm làm Trung đội trưởng Trung đội bộ binh thuộc Tiểu đoàn khinh quân Việt Nam. Năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung úy]], giữ chức vụ Đại đội trưởng; năm 1954, thăng cấp [[Đại úy]].▼
▲
Tháng 8 năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]], và được
Khi [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|đảo chính 1960]] nổ ra, ông đã có những động thái ủng hộ phe đảo chính. Vì vậy ông bị thuyên chuyển đi làm Tỉnh trưởng An Giang.<ref name="Dale Andrade 1995. pp 374-377">Dẫn theo Dale Andrade, ''Trial By Fire'', 1995. pp 374-377</ref>
==
Khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính 1 tháng 11 năm 1963]] nổ ra, ông được các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính chỉ định làm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn B Cà Mau thuộc [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]]. Ngày [[2 tháng 11]] ông được đặc cách thăng cấp [[Đại tá]].
Trung tuần tháng 3 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh. Ngày [[1 tháng 11]] cùng năm,
Tháng 6 năm 1968, ông được thuyên chuyển về Thủ Đô nhận chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay Đại tá
Ngày [[1 tháng 11]] năm 1972, ông được thăng cấp [[Trung tướng]].
Ngày [[24 tháng 3]] năm 1975, ông được tái bổ nhiệm làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Đô Thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Tuy nhiên, đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông đào nhiệm và di tản sang Hoa Kỳ.<ref>[[Phạm Bá Hoa]], ''Ngày cuối từ Tổng tham mưu đến Biệt khu thủ đô''.</ref>.
Ngày [[24 tháng 11]] năm 2006, ông từ trần tại nơi định cư, thọ 77 tuổi.
==
Ông lập gia đình với bà Phan Thị Mỹ Dung. Ông bà có với nhau 6 người con gồm 4 trai, 2 gái.
[[Thể loại:Tỉnh trưởng Sa Đéc]]
[[Thể loại:Tỉnh trưởng An Giang]]
[[Thể loại:Người Sài Gòn]]
|
lần sửa đổi