Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Brasil”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 127: Dòng 127:
Đảng Bảo thủ bị phân chia làm hai nửa: một bên là những người bảo thủ cực đoan, bên còn lại là những người bảo thủ ôn hòa ủng hộ Hòa giải.{{sfn|Nabuco|1975|pp=346, 370, 373, 376}} Lãnh đạo những người bảo thủ cực đoan là Tử tước xứ Itaboraí- Joaquim Rodrigues Torres, Eusébio de Queirós và Tử tước xứ Uruguai- Paulino Soares de Sousa, họ đều là cựu bộ trưởng trong nội các 1848–1853. Các chính khách lão luyện này nắm quyền kiểm soát Đảng Bảo thủ sau khi Bá tước xứ Paraná từ trần.{{sfn|Nabuco|1975|p=346}} Trong những năm sau năm 1857, không nội các nào tồn tại được lâu, nguyên do là thiếu thế đa số trong Chúng nghị viện.
Đảng Bảo thủ bị phân chia làm hai nửa: một bên là những người bảo thủ cực đoan, bên còn lại là những người bảo thủ ôn hòa ủng hộ Hòa giải.{{sfn|Nabuco|1975|pp=346, 370, 373, 376}} Lãnh đạo những người bảo thủ cực đoan là Tử tước xứ Itaboraí- Joaquim Rodrigues Torres, Eusébio de Queirós và Tử tước xứ Uruguai- Paulino Soares de Sousa, họ đều là cựu bộ trưởng trong nội các 1848–1853. Các chính khách lão luyện này nắm quyền kiểm soát Đảng Bảo thủ sau khi Bá tước xứ Paraná từ trần.{{sfn|Nabuco|1975|p=346}} Trong những năm sau năm 1857, không nội các nào tồn tại được lâu, nguyên do là thiếu thế đa số trong Chúng nghị viện.


Các thành viên còn lại của Đảng Tự do vốn đã suy yếu từ khi đảng sụp đổ vào năm 1848 và khởi nghĩa ''Praieira'' vào năm 1849, nay nắm bắt thời cơ được cho là Đảng Bảo thủ sắp sụp đổ để trở lại chính trường quốc gia với sức mạnh mới. Họ giáng một đòn mạnh lên chính phủ khi giành được một số ghế trong Chúng nghị viện vào năm 1860.{{sfn|Nabuco|1975|pp=364–365}} Khi nhiều người bảo thủ ôn hòa ly khai để hợp nhất vớinhững người tự do nhằm hình thành một chính đảng mới mang tên "Liên minh Tiến bộ",{{sfn|Nabuco|1975|p=378}} thế nắm giữ quyền lực của phái bảo thủ trở nên không bền vững do thiếu đa số chi phối khả thi trong nghị viện. Nọi các từ chức, và đến tháng 5 năm 1862 Pedro II bổ nhiệm một nội các tiến bộ.{{sfn|Nabuco|1975|pp=374–376}} Giai đoạn từ năm 1853 là mọt thời kỳ hòa bình và phồn vinh của Brasil: "Hệ thống chính trị vận hành thông suốt. Các quyền tự do dân sự được duy trì. Một sự khởi đầu trong việc đưa các tuyến đường sắt, điện báo và tàu hơi nước đến Brasil. Quốc gia không còn rối loạn do các tranh chấp và xung đột như đã từng bị rung chuyển trong ba mươi năm đầu."{{sfn|Barman|1999|p=192}}
Các thành viên còn lại của Đảng Tự do vốn đã suy yếu từ khi đảng sụp đổ vào năm 1848 và khởi nghĩa ''Praieira'' vào năm 1849, nay nắm bắt thời cơ được cho là Đảng Bảo thủ sắp sụp đổ để trở lại chính trường quốc gia với sức mạnh mới. Họ giáng một đòn mạnh lên chính phủ khi giành được một số ghế trong Chúng nghị viện vào năm 1860.{{sfn|Nabuco|1975|pp=364–365}} Khi nhiều người bảo thủ ôn hòa ly khai để hợp nhất vớinhững người tự do nhằm hình thành một chính đảng mới mang tên "Liên minh Tiến bộ",{{sfn|Nabuco|1975|p=378}} thế nắm giữ quyền lực của phái bảo thủ trở nên không bền vững do thiếu đa số chi phối khả thi trong nghị viện. Nọi các từ chức, và đến tháng 5 năm 1862 Pedro II bổ nhiệm một nội các tiến bộ.{{sfn|Nabuco|1975|pp=374–376}} Giai đoạn từ năm 1853 là một thời kỳ hòa bình và phồn vinh của Brasil: "Hệ thống chính trị vận hành thông suốt. Các quyền tự do dân sự được duy trì. Một sự khởi đầu trong việc đưa các tuyến đường sắt, điện báo và tàu hơi nước đến Brasil. Quốc gia không còn rối loạn do các tranh chấp và xung đột như đã từng bị rung chuyển trong ba mươi năm đầu."{{sfn|Barman|1999|p=192}}


=== Chiến tranh Paraguay ===
=== Chiến tranh Paraguay ===
[[File:Brazilian artillery 1866.jpg|thumb|200px|left|Pháo binh Brasil tại chiến trường trong [[Chiến tranh Paraguaya]], 1866]]
[[File:Brazilian artillery 1866.jpg|thumb|200px|left|Pháo binh Brasil tại chiến trường trong [[Chiến tranh Paraguaya]], 1866]]


Giai đoạn tĩnh lặng này kết thúc khi lãnh sự Anh Quốc tại Rio de Janeiro suýt châm ngòi một cuộc chiến giữa Anh Quốc và Brasil. Ông gửi mọt tối hậu thư gồm các yêu cầu có tính lăng mạ phát sinh từ hai sự kiện nhỏ vào cuối năm 1861 và đầu năm 1862.<ref>See:
Giai đoạn tĩnh lặng này kết thúc khi lãnh sự Anh Quốc tại Rio de Janeiro suýt châm ngòi một cuộc chiến giữa Anh Quốc và Brasil. Ông gửi một tối hậu thư gồm các yêu cầu có tính lăng mạ phát sinh từ hai sự kiện nhỏ vào cuối năm 1861 và đầu năm 1862.<ref>See:
* {{harvnb|Calmon|1975|p=678}};
* {{harvnb|Calmon|1975|p=678}};
* {{harvnb|Carvalho|2007|pp=103–145}};
* {{harvnb|Carvalho|2007|pp=103–145}};
Dòng 151: Dòng 151:
* {{harvnb|Lira 1977, Vol 1|pp=224–225}}.</ref> Nhà độc tài tại Paraguay láng giềng là [[Francisco Solano López]] tận dụng tình thế Uruguay để biến quốc gia của mình thành một cường quốc khu vực. Trong tháng 11 cùng năm, ông lệnh cho bắt giữ một tàu hơi nước dân sự của Brasil, gây nên [[Chiến tranh Paraguay]], và sau đó xâm chiếm Brasil.{{sfn|Carvalho|2007|p=109}}{{sfn|Lira 1977, Vol 1|p=227}}
* {{harvnb|Lira 1977, Vol 1|pp=224–225}}.</ref> Nhà độc tài tại Paraguay láng giềng là [[Francisco Solano López]] tận dụng tình thế Uruguay để biến quốc gia của mình thành một cường quốc khu vực. Trong tháng 11 cùng năm, ông lệnh cho bắt giữ một tàu hơi nước dân sự của Brasil, gây nên [[Chiến tranh Paraguay]], và sau đó xâm chiếm Brasil.{{sfn|Carvalho|2007|p=109}}{{sfn|Lira 1977, Vol 1|p=227}}


Mặc dù ban đầu có vẻ là một cuộc can thiệp quân sự ngắn gọn và đơn giản, song nó diễn biến thành một cuộc chiến toàn diện tại khu vực đông nam của Nam Mỹ. Tuy nhiên, khả năng xung đột trên hai mặt trận (với Anh Quốc và Paraguay) mất dần khi vào tháng 9 năm 1865, chính phủ Anh Quốc cử một phái viên đến xin lỗi công khai về khủng hoảng giữa hai đế quốc.{{sfn|Calmon|1975|p=748}}{{sfn|Lira 1977, Vol 1|p=237}} Cuộc xâm chiếm của Paraguay vào năm 1864 dẫn đến mọt cuộc xung đột lâu hơn dự kiến, và niềm tin vào năng lực của nội các tiến bộ trong việc tiến hành chiến tranh không còn nữa.{{sfn|Barman|1999|p=222}} Ngoài ra, từ khi bắt đầu, Liên minh Tiến bộ đã gặp trở ngại do xung đột nội bộ giữa các phái hình thành từ các cựu thành viên bảo thủ ôn hòa và cựu thành viên tự do.{{sfn|Barman|1999|p=222}}{{sfn|Nabuco|1975|p=592}}
Mặc dù ban đầu có vẻ là một cuộc can thiệp quân sự ngắn gọn và đơn giản, song nó diễn biến thành một cuộc chiến toàn diện tại khu vực đông nam của Nam Mỹ. Tuy nhiên, khả năng xung đột trên hai mặt trận (với Anh Quốc và Paraguay) mất dần khi vào tháng 9 năm 1865, chính phủ Anh Quốc cử một phái viên đến xin lỗi công khai về khủng hoảng giữa hai đế quốc.{{sfn|Calmon|1975|p=748}}{{sfn|Lira 1977, Vol 1|p=237}} Cuộc xâm chiếm của Paraguay vào năm 1864 dẫn đến một cuộc xung đột lâu hơn dự kiến, và niềm tin vào năng lực của nội các tiến bộ trong việc tiến hành chiến tranh không còn nữa.{{sfn|Barman|1999|p=222}} Ngoài ra, từ khi bắt đầu, Liên minh Tiến bộ đã gặp trở ngại do xung đột nội bộ giữa các phái hình thành từ các cựu thành viên bảo thủ ôn hòa và cựu thành viên tự do.{{sfn|Barman|1999|p=222}}{{sfn|Nabuco|1975|p=592}}


Nội các từ chức và Hoàng đế bổ nhiệm Tử tước xứ Itaboraí đã lớn tuổi làm người đứng đầu nội các mới vào tháng 7 năm 1868, đánh dấu những người bảo thủ trở lại nắm quyền.{{sfn|Barman|1999|p=223}} Điều này thúc đẩy cả hai phái tiến bộ bỏ sang bên các khác biệt, khiến họ đặt lại tên cho đảng là Đảng Tự do. Một phái tiến bộ thứ ba, nhỏ hơn và cấp tiến đã tuyên bố bản thân ủng hộ chế độ cộng hòa vào năm 1870—một điềm xấu đối với chế độ quân chủ.{{sfn|Nabuco|1975|p=666}} Tuy thế, "chính phủ nội các do Tử tước xứ Itaboraí thành lập là một thể chế có năng lực vượt xa nội các mà nó thay thế"{{sfn|Barman|1999|p=223}} và xung đột với Paraguay kết thúc trong tháng 3 năm 1870 với thắng lợi toàn thể của Brasil và các đồng minh của họ.{{sfn|Barman|1999|pp=229–230}} Trên 50.000 binh sĩ Brasil thiệt mạng,{{sfn|Doratioto|2002|p=461}} và phí tổn chiến tranh cao gấp 11 lần so với ngân sách thường niên của chính phủ.{{sfn|Doratioto|2002|p=462}} Tuy nhiên, do Brasil rất phồn vinh nên chính phủ có thể thoát nợ chiến tranh chỉ trong mười năm.{{sfn|Calmon|2002|p=201}}{{sfn|Munro|1942|p=276}} Xung đột cũng kích thích sản xuất quốc gia và tăng trưởng kinh tế.{{sfn|Barman|1999|p=243}}
Nội các từ chức và Hoàng đế bổ nhiệm Tử tước xứ Itaboraí đã lớn tuổi làm người đứng đầu nội các mới vào tháng 7 năm 1868, đánh dấu những người bảo thủ trở lại nắm quyền.{{sfn|Barman|1999|p=223}} Điều này thúc đẩy cả hai phái tiến bộ bỏ sang bên các khác biệt, khiến họ đặt lại tên cho đảng là Đảng Tự do. Một phái tiến bộ thứ ba, nhỏ hơn và cấp tiến đã tuyên bố bản thân ủng hộ chế độ cộng hòa vào năm 1870—một điềm xấu đối với chế độ quân chủ.{{sfn|Nabuco|1975|p=666}} Tuy thế, "chính phủ nội các do Tử tước xứ Itaboraí thành lập là một thể chế có năng lực vượt xa nội các mà nó thay thế"{{sfn|Barman|1999|p=223}} và xung đột với Paraguay kết thúc trong tháng 3 năm 1870 với thắng lợi toàn thể của Brasil và các đồng minh của họ.{{sfn|Barman|1999|pp=229–230}} Trên 50.000 binh sĩ Brasil thiệt mạng,{{sfn|Doratioto|2002|p=461}} và phí tổn chiến tranh cao gấp 11 lần so với ngân sách thường niên của chính phủ.{{sfn|Doratioto|2002|p=462}} Tuy nhiên, do Brasil rất phồn vinh nên chính phủ có thể thoát nợ chiến tranh chỉ trong mười năm.{{sfn|Calmon|2002|p=201}}{{sfn|Munro|1942|p=276}} Xung đột cũng kích thích sản xuất quốc gia và tăng trưởng kinh tế.{{sfn|Barman|1999|p=243}}
Dòng 190: Dòng 190:
Các biện pháp mà chính phủ thi hành báo động những người cộng hòa dân sự và phái thực chứng trong quân đội. Những người cộng hòa nhận thấy rằng động thái này sẽ làm hao mòn ủng hộ giành cho các mục tiêu của họ, và trở nên táo bạo hành động hơn nữa.{{sfn|Barman|1999|p=353}} Nội các bắt đầu tái tổ chức Vệ binh quốc gia vào tháng 8 năm 1889, và lập nên một lực lượng kình địch khiến những người bất mãn trong giới sĩ quan cân nhắc các biện pháp liều lĩnh.{{sfn|Barman|1999|p=356}} Đối với cả hai nhóm cộng hòa và quân đội, tình thế nay trở thành "bây giờ hoặc không bao giờ".{{sfn|Barman|1999|pp=353–356}} Mặc dù đa số người Brasil không mưu cầu thay đổi chính thể quốc gia,{{sfn|Ermakoff|2006|p=189}} song những người cộng hòa bắt đầu áp lực lên các sĩ quan quân đội nhằm phế truất chế độ quân chủ.{{sfn|Schwarcz|1998|p=450}}
Các biện pháp mà chính phủ thi hành báo động những người cộng hòa dân sự và phái thực chứng trong quân đội. Những người cộng hòa nhận thấy rằng động thái này sẽ làm hao mòn ủng hộ giành cho các mục tiêu của họ, và trở nên táo bạo hành động hơn nữa.{{sfn|Barman|1999|p=353}} Nội các bắt đầu tái tổ chức Vệ binh quốc gia vào tháng 8 năm 1889, và lập nên một lực lượng kình địch khiến những người bất mãn trong giới sĩ quan cân nhắc các biện pháp liều lĩnh.{{sfn|Barman|1999|p=356}} Đối với cả hai nhóm cộng hòa và quân đội, tình thế nay trở thành "bây giờ hoặc không bao giờ".{{sfn|Barman|1999|pp=353–356}} Mặc dù đa số người Brasil không mưu cầu thay đổi chính thể quốc gia,{{sfn|Ermakoff|2006|p=189}} song những người cộng hòa bắt đầu áp lực lên các sĩ quan quân đội nhằm phế truất chế độ quân chủ.{{sfn|Schwarcz|1998|p=450}}


Họ tiến hành mọt cuộc đảo chính và lập nên chế độ cộng hòa vào ngày 15 tháng 11 năm 1889.<ref>See:
Họ tiến hành một cuộc đảo chính và lập nên chế độ cộng hòa vào ngày 15 tháng 11 năm 1889.<ref>See:
* {{harvnb|Barman|1999|p=360}};
* {{harvnb|Barman|1999|p=360}};
* {{harvnb|Calmon|1975|p=1611}};
* {{harvnb|Calmon|1975|p=1611}};
Dòng 198: Dòng 198:
* {{harvnb|Carvalho|2007|p=217}};
* {{harvnb|Carvalho|2007|p=217}};
* {{harvnb|Lira 1977, Vol 3|p=99}}.</ref> Hoàng đế và gia đình bị đưa đi lưu vong vào ngày 17 tháng 11.{{sfn|Carvalho|2007|p=220}} Mặc dù có phản công từ lực lượng bảo hoàng sau khi đế quốc sụp đổ, song bị đàn áp hoàn toàn,{{sfn|Salles|1996|p=194}} và Pedro&nbsp;II cùng con gái ông đều không ủng hộ phục vị.{{sfn|Barman|1999|p=394}} Mặc dù không biết về kế hoạch đảo chính, song khi nó xảy ra và căn cứ sự chấp thuận thụ động tình thế của Hoàng đế, giới chính trị ủng hộ kết thúc chế độ quân chủ để lập chế độ cộng hòa. Họ không biết rằng mục tiêu của những thủ lĩnh đảo chính là lập ra một chế độ cộng hòa độc tài thay vì một chế độ cộng hòa tổng thống hay nghị viện.{{sfn|Lira 1977, Vol 3|pp=119–120}}
* {{harvnb|Lira 1977, Vol 3|p=99}}.</ref> Hoàng đế và gia đình bị đưa đi lưu vong vào ngày 17 tháng 11.{{sfn|Carvalho|2007|p=220}} Mặc dù có phản công từ lực lượng bảo hoàng sau khi đế quốc sụp đổ, song bị đàn áp hoàn toàn,{{sfn|Salles|1996|p=194}} và Pedro&nbsp;II cùng con gái ông đều không ủng hộ phục vị.{{sfn|Barman|1999|p=394}} Mặc dù không biết về kế hoạch đảo chính, song khi nó xảy ra và căn cứ sự chấp thuận thụ động tình thế của Hoàng đế, giới chính trị ủng hộ kết thúc chế độ quân chủ để lập chế độ cộng hòa. Họ không biết rằng mục tiêu của những thủ lĩnh đảo chính là lập ra một chế độ cộng hòa độc tài thay vì một chế độ cộng hòa tổng thống hay nghị viện.{{sfn|Lira 1977, Vol 3|pp=119–120}}

== Chính phủ ==
=== Nghị viện ===
[[File:Golden law 1888 Brazilian senate.png|thumb|left|200px|Tham nghị viện Brasil, 1888. Các nghị sĩ bỏ phiếu về Đạo luật Hoàng kim]]

Điều&nbsp;2 của Hiến pháp Brasil xác định vị thế của Hoàng đế và ''Assembleia Geral'' (Đại hội đồng hay Nghị viện), cơ cấu này vào năm 1824 gồm có 50 tham nghị viên và 102 chúng nghị viên, là các đại biểu của quốc dân. Hiến pháp cung cấp vị thế và quyền lực cho Nghị viện, và lập ra các nhánh lập pháp, thẩm tra, hành pháp và tư pháp làm "các phái đoàn quốc dân" với quyền lực riêng biệt được dự tính là cân bằng nhằm hỗ trợ hiến pháp và các quyền lợi mà chúng nắm giữ.{{sfn|Barman|1988|p=132}}

Các đặc quyền và quyền lực ban cho cơ quan lập pháp trong Hiến pháp có nghĩa rằng nó có thể và sẽ đóng vai trò lớn và không thể thiếu trong hoạt động của chính phủ—nó không chỉ là cỗ máy biểu quyết. Chỉ duy Đại hội đồng có thể ban hành, thu hồi, giải thích và đình chỉ các luật theo Điều&nbsp;13 của Hiến pháp. Cơ quan lập pháp cũng giữ quyền lực ngân sách và được yêu cầu ủy quyền chi tiêu và thuế hàng năm. Chỉ cơ cấu này có thể phê chuẩn và thực thi giám sát các khoản vay và nợ của chính phủ. Các trách nhiệm khác được giao phó cho Đại hội đồng bao gồm quyết định quy mô của lực lượng quân sự, lập các chức vụ trong chính phủ, kiểm tra phúc lợi quốc gia và đảm bảo rằng chính phủ được điều hành phù hợp với Hiến pháp. Điều khoản cuối cùng này cho phép cơ quan lập pháp mở rộng thẩm quyền để thẩm tra và tranh luận chính sách và điều hành của chính phủ.{{sfn|Barman|1988|pp=132–133}}

Về vấn đề chính sách đối ngoại, Hiến pháp (theo Điều 102) yêu cầu rằng Đại hội đồng được tham vấn về tuyên chiến, các hiệp định và chỉ đạo quan hệ quốc tế. Một nhà lập pháp kiên quyết có thể tận dụng các điều khoản hiến pháp để ngăn chặn hoặc hạn chế các quyết định của chính phủ, tác động đến việc bổ nhiệm và buộc tái xét các chính sách.{{sfn|Barman|1988|p=133}}

Trong các phiên họp kéo dài bốn tháng mỗi năm, Đại hội đồng tiến hành thảo luận công khai. Chúng được thông báo rộng rãi và hình thành một diễn đàn quốc gia để biểu lộ mối quan tâm của công chúng từ toàn bộ các địa phương trong nước. Nó thường xuyên là một nơi để biểu thị phản đối các chính sách và trình bày các bất bình. Các nhà lập pháp được miễn truy tố đối với các phát biểu trong phòng họp và thực thi nhiệm vụ của mình. Chỉ có phòng thẩm phán trong Đại hội đồng có thể ra lệnh bắt giữ một thành viên trong nhiệm kỳ của người đó. "Khi không phải chịu trách nhiệm thực khi thi hành công vụ thực tế, các nhà lập pháp được tự do đề xuất các cải cách bao quát, tán thành các giải pháp lý tưởng, tố cáo hành vi gây hại và cơ hội của chính phủ."{{sfn|Barman|1988|p=133}}

=== Hoàng đế và hội đồng bộ trưởng ===
[[File:Pedro II of Brazil and politicians.jpg|thumb|250px|Các chính trị gia nổi bật và nhân vật quốc gia vây quanh Hoàng đế Pedro&nbsp;II, khoảng năm 1875]]

Hoàng đế đứng đầu nhánh thẩm tra và hành pháp (lần lượt được hỗ trợ từ Hội đồng Quốc gia và Hội đồng Bộ trưởng); ông có tiếng nói quyết định và quyền lực tối hậu đối với chính phủ quốc gia.{{sfn|Barman|1988|p=132}} Ông có nhiệm vụ đảm bảo độc lập và ổn định của quốc gia. Hiến pháp (Điều 101) trao cho ông rất ít cách thức để áp đặt ý chí của bản thân lên Đại hội đồng, trong đó ông có quyền giải tán hoặc kéo dài các phiên họp của cơ quan lập pháp. Tại Tham nghị viện, hoàng đế có một quyền lực là bổ nhiệm các nghị viên song điều này không nhất thiết nâng cao ảnh hưởng của ông do các nghị viên giữ chức trọn đời và do đó thoát khỏi áp lực từ chính phủ một khi họ được phê chuẩn. Trong những lần Chúng nghị viện bị giải tán, các cuộc bầu cử mới được yêu cầu tổ chức lập tức và khóa nghị viên mới được bầu ra. "Quyền lực này hữu hiệu do bảo lưu một mối đe dọa. Nó không để dùng được nhiều lần, cũng không thể được sử dụng để mang thuận lợi cho hoàng đế."{{sfn|Barman|1988|p=133}}

Trong thời gian trị vì của Pedro&nbsp;I, Chúng nghị viện chưa từng bị giải tán và các phiên họp lập pháp chưa từng phải kéo dài hay bị hoãn.{{sfn|Viana|1994|p=476}} Dưới thời Pedro&nbsp;II, Chúng nghị việc chỉ từng bị giải tán theo thỉnh cầu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng). Tổng thể có 11 lần giải thể Chúng nghị viện trong thời Pedro&nbsp;II cai trị, tng số đó 10 lần là sau khi tham khảo với Hội đồng Quốc gia, là điều nằm ngoài yêu cầu của Hiến pháp.{{sfn|Carvalho|1993|p=42}} Thế cân bằng quyền lực theo hiến pháp tồn tại giữa Đại hội đồng và nhánh hành pháp dưới quyền Hoàng đế. Cơ quan lập pháp không thể tự vận hành và quân chủ không thể áp đặt ý chí của mình cho Đại hội đồng. Hệ thống hoạt động trơn chu chỉ khi Đại hội đồng và Hoàng đế hành động trên tinh thần hợp tác vì lợi ích quốc gia.{{sfn|Barman|1988|p=133}}

Một yếu tố mới được thêm vào khi chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng" chính thức được lập ra vào năm 1847—song đã tồn tại trên thực tiễn từ năm 1843. Chủ tịch có địa vị trong đảng của mình và trước Hoàng đế, và chúng đôi khi có thể xung đột. Thủ lĩnh bãi nô và sử gia thế kỷ 19 Joaquim Nabuco nói rằng "Chủ tịch Hội đồng tại Brasil không phải như Thủ tướng Nga, thuộc hạ của quân chủ, cũng không như Thủ tướng Anh Quốc, chỉ thực hiện theo ủy thác của [[Hạ Nghị viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Thứ dân viện]]: ủy nhiệm của quân chủ đối với ông cần thiết và quan trọng như ủy nhiệm của Nghị viện, và và nhằm sử dụng an toàn chức trách của mình, ông đã kiềm chế tính thất thường, sự lưỡng lự và tham vọng của nghị viện, cũng như luôn duy trì bất biến sự ủng hộ, thiện ý của hoàng đế."{{sfn|Nabuco|1975|p=712}}

=== Chính quyền cấp tỉnh và địa phương ===
{{multiple image
| direction = vertical
| width = 280 | align = left
| image2 = Salvador bahia panorama 1870.jpg|caption2 = [[Salvador, Bahia|Salvador]] là một thành phố lớn và là thủ phủ của tỉnh Bahia tại miền đông bắc, 1870
| image3 = Rio de janeiro 1889 04.jpg|caption3 = [[Rio de Janeiro]] là một đại đô thị và là thủ đô của đế quốc, 1889.
}}


==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 05:48, ngày 30 tháng 8 năm 2016

Đế quốc Brasil
1822–1889
Quốc huy Brasil
Quốc huy

Tiêu ngữIndependência ou Morte!
"Độc lập hay là chết!"

Quốc caHino da Independência (1822–1831)
"Bài ca Độc lập"
Tập tin:Hino da Independência (orquestrado).ogg

Hino Nacional Brasileiro (1831–1889)
"Quốc ca Brasil"
Đế quốc Brasil tại thời điểm khuếch trương lãnh thổ lớn nhất, bao gồm tỉnh cũ Cisplatina
Đế quốc Brasil tại thời điểm khuếch trương lãnh thổ lớn nhất, bao gồm tỉnh cũ Cisplatina
Tổng quan
Thủ đôRio de Janeiro
Ngôn ngữ thông dụngBồ Đào Nha
Tôn giáo chính
Công giáo La Mã
Chính trị
Chính phủquân chủ lập hiến
Hoàng đế Brasil 
• 1822–1831
Pedro I
• 1831–1889
Pedro II
Thủ tướng 
• 1843–1844
Hầu tước xứ Paraná (thực tế)
• 1847–1848
Đệ nhị tử tước xứ Caravelas (chức vụ thiết lập)
• 1889
Tử tước xứ Ouro Preto]] (cuối)
Lập phápĐại hội đồng
Tham nghị viện
[Chúng nghị viện
Lịch sử
Thời kỳthế kỷ 19
• Độc lập
7 tháng 9 năm 1822
• Pedro I đăng cơ
12 tháng 10 1822
• Thông qua Hiến pháp Đế quốc
25 tháng 3 năm 1824
• Pedro II đăng cơ
7 tháng 4 năm 1831
• Bãi nô
13 tháng 5 năm 1888
• Phế trừ chế độ quân chủ
15 tháng 11 1889
Địa lý
Diện tích  
• 1889
8.363.186 km2
(3.229.044 mi2)
Dân số 
• 1823
4000000
• 1854
7000700
• 1872
9930479
• 1890
14333915
Kinh tế
Đơn vị tiền tệReal
Mã ISO 3166BR
Tiền thân
Kế tục
Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves
Vương quốc Brasil
Đệ nhất Cộng hòa Brasil
Uruguay

Đế quốc Brasil là một quốc gia tồn tại trong thế kỷ 19, về đại thể bao gồm các lãnh thổ mà nay tạo thành BrasilUruguay. Chính phủ quốc gia vận hành theo chế độ quân chủ lập hiến nghị viện đại diện, nằm dưới quyền của hai cha con hoàng đế Pedro IPedro II. Brasil nguyên là một thuộc địa của Vương quốc Bồ Đào Nha, song đến năm 1808 lại trở thành nơi đặt trị sở của Đế quốc Bồ Đào Nha khi Thân vương nhiếp chính Bồ Đào Nha, về sau trở thành Quốc vương João VI, phải đào tị khi Napoléon xâm lược Bồ Đào Nha và an định bản thân và chính phủ của mình tại thành phố Rio de Janeiro của Brasil. João VI sau đó trở về Bồ Đào Nha, để lại người con trai cả là Pedro cai trị Vương quốc Brasil trong địa vị người nhiếp chính. Đến ngày 7 tháng 9 năm 1822, Pedro tuyên bố Brasil độc lập sau khi tiến hành một cuộc chiến không thành công chống lại vương quốc của cha, và đến ngày 12 tháng 10 cùng năm được tôn làm hoàng đế đầu tiên của Brasil với hiệu là Pedro I. Quốc gia mới có lãnh thổ rất rộng lớn song cư dân thưa thớt và đa dạng về thành phần dân tộc.

Không giống như hầu hết các nước cộng hòa sử dụng tiếng Tây Ban Nha lân cận, Brasil có được ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đảm bảo quyền tự do ngôn luận theo hiến pháp, và tôn trọng các quyền dân sự của thần dân, mặc dù có các hạn chế pháp lý đối với nữ giới và nô lệ, nô lệ bị xem như vật sở hữu và không phải công dân. Nghị viện lưỡng viện của đế quốc được bầu theo phương pháp tương đối dân chủ trong thời kỳ này, các cơ quan lập pháp cấp tỉnh và địa phương cũng tương tự. Tình trạng này dẫn đến một cuộc xung đột tư tưởng giữa Pedro I và một phái nghị viện khá lớn về vị thế của quân chủ trong chính phủ. Brasil thất bại trong Chiến tranh Cisplatina trước Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata (Argentina) vào năm 1828, dẫn đến việc tỉnh Cisplatina ly khai (sau này trở thành Uruguay). Năm 1826, bất chấp vai trò của mình trong sự kiện Brasil độc lập, Pedro I trở thành quốc vương của Bồ Đào Nha; ông lập tức thoái vị vương vị Bồ Đào Nha để nhượng lại cho con gái trưởng là Maria. Hai năm sau, Maria bị em trai của Pedro I là Miguel đoạt quyền. Không thể giải quyết sự vụ của cả Brasil và Bồ Đào Nha, Pedro I thoái vị vương vị Brasil vào ngày 7 tháng 4 năm 1831 và lập tức khởi hành đi châu Âu để khôi phục vương vị Bồ Đào Nha cho con gái.

Người kế vị Pedro I tại Brasil là cậu con trai năm tuổi của ông, hiệu là Pedro II. Do Pedro II khi đó còn nhỏ tuổi, một chức vụ nhiếp chính ở mức độ yếu được lập ra. Khoảng trống quyền lực bắt nguồn từ việc thiếu vắng một quân chủ cai trị, là người phân xử cuối cùng các tranh chấp chính trị, dẫn đến nội chiến giữa các phái địa phương. Kế thừa một quốc gia bên bờ tan rã, Pedro II ngay khi được tuyên bố trưởng thành đã giải quyết nhằm đem đến hòa bình và ổn định cho quốc gia, cuối cùng khiến Brasil trở thành một cường quốc quốc tế mới nổi. Brasil giành chiến thắng trong ba cuộc xung đột quốc tế là Chiến tranh Plata, Chiến tranh Uruguay và Chiến tranh Paraguay trong thời gian Pedro II cai trị, và đế quốc này chiếm ưu thế trong một số tranh chấp quốc tế khác và bùng phát xung đột nội bộ. Sự thịnh vượng và phát triển về kinh tế tại Brasil thu hút một dòng người châu Âu di cư, trong đó có cả những tín đồ đạo Tin Lành và Do Thái giáo, song tín đồ Công giáo La Mã vẫn chiếm hầu hết cư dân đế quốc này. Chế độ nô lệ ban đầu trở nên phổ biến, song bị hạn chế dần theo pháp luật và đến năm 1888 thì bị bãi bỏ hoàn toàn. Nghệ thuật thị giác, văn học, và sân khấu Brasil phát triển trong giai đoạn tiến bộ này. Mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh từ các phong cách châu Âu, từ tân cổ điển cho đến lãng mạn, song mỗi quan niệm được điều chỉnh để tạo nên một nền văn hóa Brasil độc nhất.

Hòa bình nội bộ và thịnh vượng kinh tế được duy trì trong bốn thập niên cuối Pedro II cai trị, song ông không mong muốn chế độ quân chủ tồn tại sau thời của mình và không thực hiện nỗ lực nào để duy trì ủng hộ cho thể chế. Người thuộc hàng kế vị ông là con gái Isabel, song cả Pedro II và tầng lớp cai trị đều nhận định một nữ quân chủ là không thỏa đáng. Không có người kế vị khả thi, các thủ lĩnh chính trị của đế quốc nhận thấy không có lý do để bảo vệ chế độ quân chủ. Một phái gồm các nhà lãnh đạo trong quân đội tiến hành đảo chính bất ngờ, buộc Hoàng đế phải thoái vị vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 sau 58 năm trị vì, mục đich của họ là thành lập một nước cộng hòa do một nhà độc tài đứng đầu, hình thành Đệ nhất Cộng hòa Brasil.

Lịch sử

Độc lập và những năm sơ khởi

Pedro Álvares Cabral đổ bộ Brasil năm 1500.

Bồ Đào Nha yêu sách lãnh thổ nay là Brasil vào ngày 22 tháng 4 năm 1500, khi nhà hàng hải Pedro Álvares Cabral đổ bộ tại bờ biển nơi đây.[1] Người Bồ Đào Nha tiến hành định cư thường xuyên bắt đầu vào năm 1532, và trong 300 năm sau đó họ khuếch trương về phía tây với tốc độ chậm cho đến khi vươn tới gần như toàn bộ biên giới Brasil hiện tại.[2] Năm 1808, quân đội của Hoàng đé Napoléon I xâm chiếm Bồ Đào Nha, buộc vương tộc Braganza của Bồ Đào Nha phải lưu vong. Họ tái lập triều đình tại thành phố Rio de Janeiro của Brasil, nơi này trở thành trị sở phi chính thức của Đế quốc Bồ Đào Nha.[3]

Năm 1815, thái tử Bồ Đào Nha là João (về sau là João VI), đang giữ vai trò nhiếp chính, lập ra Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves, địa vị của Brasil được thăng từ thuộc địa thành vương quốc. Ông đăng cơ vương vị Bồ Đào Nha vào năm 1816, sau khi mẹ là Maria I từ trần. João VI trở về Bồ Đào Nha vào tháng 4 năm 1821, để lại con trai và người kế vị của mình là Pedro cai trị Brasil với địa vị người nhiếp chính.[4][5] Chính phủ Bò Đào Nha lập tức hành động nhằm thu hồi quyền tự trị mà Brasil được ban cho từ năm 1808.[6][7] Mối đe dọa về việc mất đi quyền kiểm soát hạn chế đối với nội vụ đã kích động người Brasil phản đối rộng khắp. José Bonifácio de Andrada cùng với các thủ lĩnh người Brasil khác thuyết phục Pedro tuyên bố Brasil độc lập từ Bồ Đào Nha vào ngày 7 tháng 9 năm 1822.[8][9] Ngày 12 tháng 10, vương tử được tôn làm Pedro I, trở thành hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Brasil mới thành lập, với một chế độ quân chủ lập hiến.[10][11] Các đơn vị quân sự vũ trang trung thành với Bồ Đào Nha tiến hành phản đối tuyên bố độc lập trên khắp Brasil. Chiến tranh hậu độc lập diễn ra trên khắp đế quốc, có các trận đánh tại các khu vực miền bắc, đông bắc và miền nam. Các binh sĩ Bồ Đào Nha cuối cùng đầu hàng vào tháng 3 năm 1824,[12][13] và Bồ Đào Nha công nhận độc lập của Brasil vào tháng 8 năm 1825.[14]

Pedro I phải đương đầu với một số cuộc khủng hoảng trong thời gian ông cai trị. Một cuộc phản loạn ly khai tại tỉnh Cisplatina vào đầu năm 1825, sau đó Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata (nay là Argentina) nỗ lực nhằm sáp nhập Cisplatina khiến đế quốc tham gia Chiến tranh Cisplatina: "một cuộc chiến trường kỳ, không vinh quang, và rốt cuộc vô ích tại phương nam".[15] Trong tháng 3 năm 1826, João VI từ trần và Pedro I kế thừa vương vị Bồ Đào Nha, tng một thời gian ngắn ông trở thành Quốc vương Pedro IV của Bồ Đào Nha trước khi thoái vị để nhượng lại vương vị cho con gái trưởng là Maria II.[16] Tình hình xấu đi vào năm 1828 khi chiến tranh tại phương nam kết thúc với kết quả là Brasil để mất Cisplatina, lãnh thổ này trở thành quốc gia Uruguay độc lập.[17] Tại Lisboa trong cùng năm, em trai của Pedro I là Thân vương Miguel đoạt vương vị của Maria II.[18]

Các khó khăn khác nổi lên khi nghị viện của đế quốc khai mạc vào năm 1826. Pedro I cùng một tỷ lệ đáng kể nghị viên tranh luận ủng hộ về hệ thống tư pháp độc lập, một nghị viện tuyển cử đại chúng và một chính phủ do hoàng đế lãnh đạo, hoàng đế nắm giữ các quyền hành chính tổng thể và đặc quyền.[19] Các nghị viên khác tranh luận ủng hộ một cấu trúc tương tự, chỉ khác là vị thế của quân chủ có ảnh hưởng ít hơn và nhánh lập pháp chiếm ưu thế trong chính sách và cai quản.[20] Cuộc đấu tranh về việc hoàng đế hay nghị viện chi phối chính phủ chuyển thành các cuộc tranh luận từ năm 1826 đến năm 1831 về xác lập cấu trúc chính phủ và chính trị.[15] Không thể đồng thời giải quyết các vấn đề tại Brasil và Bồ Đào Nha, ngày 7 tháng 4 năm 1831 Hoàng đế thoái vị để nhượng vương vị cho con trai là Pedro II và lập tức lên thuyền sang châu Âu để phục vị cho con gái.[21]

Hỗn loạn

Nơi đặt trụ sở của chính phủ Đế quốc Brasil, năm 1840

Sau khi Pedro I vội vàng rời đi, Brasil có nguyên thủ quốc gia là một bé trai năm tuổi. Do không có tiền lệ, Đế quốc phải đối diện với viễn cảnh về một giai đoạn kéo dài hơn 12 năm không có quyền hành pháp mạnh, do theo hiến pháp phải đến ngày 2 tháng 12 năm 1843 Pedro II mới không đến tuổi thành niên và bắt đầu thi hành quyền lực của hoàng đế.[22] Một người nhiếp chính được lựa chọn để cai trị quốc gia trong giai đoạn quá độ. Do người nhiếp chính nắm giữ ít thi hành quyền lực của hoàng đế và hoàn toàn phụ thuộc Đại hội đồng, nên ông không thể lấp đầy khoảng trống tại thượng tầng chính phủ Brasil.[23]

Người nhiếp chính tỏ ra không thể giải quyết các tranh chấp và kình địch giữa các phái chính trị quốc gia và địa phương. Tin tưởng rằng trao cho chính quyền cấp tỉnh và địa phương quyền tự trị lớn hơn sẽ giúp chế ngự bất đồng đang lớn dần, Đại hội đồng thông qua một tu chính án hiến pháp vào năm 1834, mang tên Ato Adicional (Đạo luật Bổ sung). Tuy nhiên, thay vì kết thúc tình trạng hỗn loạn, các quyền lực mới này chỉ thúc đẩy cho các tham vọng và kình địch địa phương. Bạo lực bùng phát trên toàn quốc.[24] Các đảng địa phương cạnh tranh với mức độ tàn bạo mới nhằm chi phối chính quyền cấp tỉnh thành, do bất kỳ đảng nào chi phối tỉnh cũng sẽ giành quyền kiểm soát hệ thống tuyển cử và chính trị. Các đảng thất cử nổi loạn và nỗ lực nắm quyền bằng vũ lực, kết quả là một số cuộc nổi loạn.[25]

Các chính trị gia lên nắm quyền trong thập niên 1830 đễn lúc này trở nên quen thuộc với các khó khăn và cạm bẫy quyền lực. Theo sử gia Roderick J. Barman, đến năm 1840 "họ đã mất toàn bộ niềm tin vào năng lực của mình trong việc tự cai trị quốc gia. Họ chấp thuận Pedro II trong vị thế một nhân vật quyền lực, sự hiện diện của ông là điều không thể thiếu đối với sự sống còn của quốc gia."[26] Một vài trong số các chính trị gia này (những người hình thành Đảng Bảo thủ trong thập niên 1840) tin tưởng rằng một nhân vật trung lập là điều cần thiết, một người có thể đứng trên các phái chính trị và lợi ích tầm thường để đối thoại với bất đồng và tiết chế tranh chấp.[27] Họ hình dung một hoàng đế phụ thuộc nhiều hơn vào cơ quan lập pháp so với chế độ quân chủ lập hiến mà Pedro I hình dung, song với quyền lực lớn hơn so với vị thế mà những kình địch của họ (về sau hình thành Đảng Tự do) chủ trương vào đầu thời kỳ nhiếp chính.[28] Tuy nhiên, những người tự do trù tính thông qua một sáng kiến nhằm hạ thấp tuổi thành niên của Pedro II từ 18 xuống 14. Hoàng đế được tuyên bố thích hợp để cai trị vào tháng 7 năm 1840.[29]

Củng cố

Recife là thủ phủ của Pernambuco tại đông bắc Brasil, hai năm sau khi kết thúc khởi nghĩa Praieira

Nhằm đạt được các mục tiêu của mình, những người tự do liên kết với một nhóm gồm các công vụ viên cao cấp trong cung và các chính trị gia nổi bật: "Phái Triều thần". Thành viên phái này nằm trong phạm vi thân cận của Hoàng đế và thiết lập ảnh hưởng đối với ông,[30] tạo điều kiện cho việc bổ nhiệm các nội các tự do-triều thần liên tiếp nhau. Tu nhiên, ưu thế của họ kéo dài ngắn ngủi. Đến năm 1846, Pedro II đã trưởng thành về thể chất và tinh thần. Không còn là một cậu bé 14 tuổi bất an chịu ảnh hưởng từ tin đồn nhảm, các đề xuất có tính âm mưu bí mật, và các sách lược vận động khác,[31] Các nhược điểm của hoàng đế trẻ tuổi mất dần đi và độ mạnh bạo trong tính cách trở nên rõ rệt.[31] Ông sắp đặt thành công việc kết thúc ảnh hưởng của triều thần bằng cách loại bỏ họ khỏi phạm vi thân cận của mình mà không gây bất kỳ rối loạn công khai nào.[32] Ông cũng giải tán những người tự do vốn tỏ ra vô tích sự khi giữ chức vụ, và kêu gọi những người bảo thủ thành lập một chính phủ vào năm 1848.[33]

Năng lực của Hoàng đế và nội các bảo thủ mới bổ nhiệm được thử thách qua ba cuộc khủng hoảng trong giai đoạn từ 1848 đến 1852.[34] Cuộc khủng hoảng đầu tiên là đối phó với nhập khẩu lậu nô lệ. Nhập khẩu nô lệ bị cấm chỉ vào năm 1826 theo một hiệp định với Anh Quốc.[33] Tuy nhiên, việc buôn người tiếp tục mà không giảm đi, và khi Anh Quốc thông qua Đạo luật Aberdeen năm 1845 thì các chiến hạm Anh Quốc được phép cho người nhảy sang tàu của Brasil và bắt giữ bất kỳ ai bị phát hiện là tham dự mua bán nô lệ.[35] Trong khi Brasil phải vật lộn với vấn đề này, khởi nghĩa Praieira bùng phát vào ngày 6 tháng 11 năm 1848, đây là mọ cuộc xung đột giữa các phái chính trị địa phương trong tỉnh Pernambuco, song bị trấn áp vào tháng 3 năm 1849. Đây là cuộc nổi loạn cuối cùng diễn ra thời chế độ quân chủ, và nó kết thúc đáng dấu bắt đầu bốn mươi năm hòa bình nội bộ tại Brasil. Luật Eusébio de Queirós được ban hành vào ngày 4 tháng 9 năm 1850, trao cho chính phủ quyền lực rộng để chiến đấu với nạn mua bán nô lệ bất hợp pháp. Với công cụ mới này, Brasil hành động nhằm diệt trừ nhập khẩu nô lệ, và đến năm 1852 cuộc khủng hoảng đầu tiên này kết thúc, với việc Anh Quốc chấp thuận rằng nạn mua bán này đã được ngăn chặn.[36]

Cuộc khủng hoảng thứ ba là xung đột với Liên bang Argentina về uy thế tại các lãnh thổ lân cận Río de la Plata và thông hành tự do trên thủy đạo này.[37] Kể từ thập niên 1830, nhà độc tài Juan Manuel de Rosas tại Argentina ủng hộ các cuộc khởi nghĩa tại Uruguay và Brasil. Đế quốc không thể đối phó với mối đe dọa do Rosas gây ra cho đến năm 1850,[37] khi hình thành một liên minh giữa Brasil, Uruguay và những người Argentina bất mãn,[37] dẫn đến Chiến tranh Plata và sau đó là sự kiện người cai trị Argentina bị phế truất tng tháng 2 năm 1852.[38][39] Do vượt qua thành công các cơn khủng hoảng này, Brasil nâng cao đáng kể độ ổn định và uy tín quốc gia, nổi lên thành một cường quốc Tây bán cầu.[40] Trên phương diện quốc tế, người châu Âu nhận thấy quóc gia này như là hiện thân của các lý tưởng tự do quen thuộc, như tự do báo chí và tôn trọng theo hiến pháp các quyền tự do dân sự. Chế độ quân chủ nghị viện đại diện tại Brasil cũng hoàn toàn tương phản với đặc điểm pha trộn giữa độc tài và bất ổn tại các quốc gia khác tại Nam Mỹ đồng thời kỳ.[41]

Phát triển

Đầu máy xe lửa Pequenina tại tỉnh Bahia, khoảng năm 1859

Đầu thập niên 1850, Brasil có được ổn định nội bộ và kinh tế phồn vinh.[42] Cơ sở hạ tầng quốc gia được phát triển, việc tiến hành xây dựng các tuyến đường sắt, điện báo và tàu hơi nước giúp liên kết Brasil thành một thực thể quốc gia cố kết.[42] Sau 5 năm cầm quyền, nội các bảo thủ thành công được giải thể và đến tháng 9 năm 1853, thủ lĩnh Đảng Bảo thủ là Hầu tước xứ Paraná-Honório Hermeto Carneiro Leão được giao nhiệm vụ thành lập một nội các mới.[43] Hoàng đế Pedro II muốn thúc đẩy một kế hoạch tham vọng, được gọi là "Sự hòa giải",[44] nhằm mục tiêu tăng cường vị thế của nghị viện trong giải quyết các tranh chấp chính trị của quốc gia.[43][45]

Hầu tước xứ Paraná mời một số người tự do gia nhập hàng ngũ bảo thủ và đi xa đến mức chỉ định một số người làm bộ trưởng. Nội các mới có thành công cao độ, song bị quấy rầy từ ban đầu trước phản đối mãnh liệt từ các thành viên bảo thủ cực đoan trong Đảng Bảo thủ do họ bác bỏ các thành viên tự do mới trong nội các. Họ cho rằng nội các đã biến thành một cỗ máy chính trị bị phá hoại khi mà các nhân vật tự do đổi phe vốn không thực tâm chia sẻ các tư tưởng của đảng và chủ yếu quan tâm đến việc giành được chức vụ công.[46] Bất chấp hồ nghi này, Bá tước xứ Paraná thể hiện tính kiên cường trong việc đẩy lui các mối đe dọa và khắc phục các chướng ngại và khó khăn.[47][48] Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 1856, Bá tước xứ Paraná đột ngột từ trần tại đỉnh cao sự nghiệp, song nội các tồn tại cho đến tháng 5 năm 1857.[49]

Đảng Bảo thủ bị phân chia làm hai nửa: một bên là những người bảo thủ cực đoan, bên còn lại là những người bảo thủ ôn hòa ủng hộ Hòa giải.[50] Lãnh đạo những người bảo thủ cực đoan là Tử tước xứ Itaboraí- Joaquim Rodrigues Torres, Eusébio de Queirós và Tử tước xứ Uruguai- Paulino Soares de Sousa, họ đều là cựu bộ trưởng trong nội các 1848–1853. Các chính khách lão luyện này nắm quyền kiểm soát Đảng Bảo thủ sau khi Bá tước xứ Paraná từ trần.[51] Trong những năm sau năm 1857, không nội các nào tồn tại được lâu, nguyên do là thiếu thế đa số trong Chúng nghị viện.

Các thành viên còn lại của Đảng Tự do vốn đã suy yếu từ khi đảng sụp đổ vào năm 1848 và khởi nghĩa Praieira vào năm 1849, nay nắm bắt thời cơ được cho là Đảng Bảo thủ sắp sụp đổ để trở lại chính trường quốc gia với sức mạnh mới. Họ giáng một đòn mạnh lên chính phủ khi giành được một số ghế trong Chúng nghị viện vào năm 1860.[52] Khi nhiều người bảo thủ ôn hòa ly khai để hợp nhất vớinhững người tự do nhằm hình thành một chính đảng mới mang tên "Liên minh Tiến bộ",[53] thế nắm giữ quyền lực của phái bảo thủ trở nên không bền vững do thiếu đa số chi phối khả thi trong nghị viện. Nọi các từ chức, và đến tháng 5 năm 1862 Pedro II bổ nhiệm một nội các tiến bộ.[54] Giai đoạn từ năm 1853 là một thời kỳ hòa bình và phồn vinh của Brasil: "Hệ thống chính trị vận hành thông suốt. Các quyền tự do dân sự được duy trì. Một sự khởi đầu trong việc đưa các tuyến đường sắt, điện báo và tàu hơi nước đến Brasil. Quốc gia không còn rối loạn do các tranh chấp và xung đột như đã từng bị rung chuyển trong ba mươi năm đầu."[55]

Chiến tranh Paraguay

Pháo binh Brasil tại chiến trường trong Chiến tranh Paraguaya, 1866

Giai đoạn tĩnh lặng này kết thúc khi lãnh sự Anh Quốc tại Rio de Janeiro suýt châm ngòi một cuộc chiến giữa Anh Quốc và Brasil. Ông gửi một tối hậu thư gồm các yêu cầu có tính lăng mạ phát sinh từ hai sự kiện nhỏ vào cuối năm 1861 và đầu năm 1862.[56] Chính phủ Brasil cự tuyệt khuất phục, và lãnh sự ban lệnh cho các chiến hạm Anh Quốc bắt giữ các thương thuyền của Brasil làm tài sản bồi thường.[57] Brasil chuẩn bị cho xung đột sắp xảy đến,[58][59] và lực lượng tuần duyên được cấp phép khai hỏa vào bất kỳ chiến hạm Anh Quốc nào cố tình bắt giữ các thương thuyền của Brasil.[60] Chính phủ Brasil sau đó đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Anh Quốc vào tháng 6 năm 1863.[61]

Do chiến tranh với Đế quốc Anh còn mơ hồ, Brasil chuyển chú ý của mình đến biên giới phương nam. Cuộc nội chiến khác bắt đầu tại Uruguay khi các chính đảng tại đây kình chống nhau.[62] Xung đột nội bộ tại đó dẫn đến các vụ sát hại người Brasil và tài sản của họ tại Uruguay bị cướp bóc.[63] Nội các tiến bộ của Brasil quyết định can thiệp và phái một đạo quân đi xâm chiếm Uruguay trong tháng 12 năm 1864, khởi đầu Chiến tranh Uruguay ngắn ngủi.[64] Nhà độc tài tại Paraguay láng giềng là Francisco Solano López tận dụng tình thế Uruguay để biến quốc gia của mình thành một cường quốc khu vực. Trong tháng 11 cùng năm, ông lệnh cho bắt giữ một tàu hơi nước dân sự của Brasil, gây nên Chiến tranh Paraguay, và sau đó xâm chiếm Brasil.[65][66]

Mặc dù ban đầu có vẻ là một cuộc can thiệp quân sự ngắn gọn và đơn giản, song nó diễn biến thành một cuộc chiến toàn diện tại khu vực đông nam của Nam Mỹ. Tuy nhiên, khả năng xung đột trên hai mặt trận (với Anh Quốc và Paraguay) mất dần khi vào tháng 9 năm 1865, chính phủ Anh Quốc cử một phái viên đến xin lỗi công khai về khủng hoảng giữa hai đế quốc.[67][68] Cuộc xâm chiếm của Paraguay vào năm 1864 dẫn đến một cuộc xung đột lâu hơn dự kiến, và niềm tin vào năng lực của nội các tiến bộ trong việc tiến hành chiến tranh không còn nữa.[69] Ngoài ra, từ khi bắt đầu, Liên minh Tiến bộ đã gặp trở ngại do xung đột nội bộ giữa các phái hình thành từ các cựu thành viên bảo thủ ôn hòa và cựu thành viên tự do.[69][70]

Nội các từ chức và Hoàng đế bổ nhiệm Tử tước xứ Itaboraí đã lớn tuổi làm người đứng đầu nội các mới vào tháng 7 năm 1868, đánh dấu những người bảo thủ trở lại nắm quyền.[71] Điều này thúc đẩy cả hai phái tiến bộ bỏ sang bên các khác biệt, khiến họ đặt lại tên cho đảng là Đảng Tự do. Một phái tiến bộ thứ ba, nhỏ hơn và cấp tiến đã tuyên bố bản thân ủng hộ chế độ cộng hòa vào năm 1870—một điềm xấu đối với chế độ quân chủ.[72] Tuy thế, "chính phủ nội các do Tử tước xứ Itaboraí thành lập là một thể chế có năng lực vượt xa nội các mà nó thay thế"[71] và xung đột với Paraguay kết thúc trong tháng 3 năm 1870 với thắng lợi toàn thể của Brasil và các đồng minh của họ.[73] Trên 50.000 binh sĩ Brasil thiệt mạng,[74] và phí tổn chiến tranh cao gấp 11 lần so với ngân sách thường niên của chính phủ.[75] Tuy nhiên, do Brasil rất phồn vinh nên chính phủ có thể thoát nợ chiến tranh chỉ trong mười năm.[76][77] Xung đột cũng kích thích sản xuất quốc gia và tăng trưởng kinh tế.[78]

Cực thịnh

Một nhóm nô lệ lớn tụ tập tại một trang trại thuộc tỉnh Minas Gerais, 1876

Chiến thắng ngoại giao trước Đế quốc Anh và chiến thắng quân sự trước Uruguay vào năm 1865, tiếp đến là kết thúc thắng lợi trng chiến tranh với Paraguay vào năm 1870, đánh dấu khởi đầu "thời đại hoàng kim" của Đế quốc Brasil.[79] Kinh tế Brasil tăng trưởng nhanh chóng; đường sắt, tàu thủy và các dự án hiện đại hóa khác được khởi động; nhập cư phát triển mạnh.[80] Đế quốc bắt đầu được quốc tế biết đến là một quốc gia hiện đại và phồn vinh, chỉ xếp sau Hoa Kỳ tại châu Mỹ; là nơi có kinh tế ổn định về chính trị cùng một tiềm năng đầu tư tốt.[79]

Trong tháng 3 năm 1871, Pedro II bổ nhiệm nhân vật bảo thủ là Tử tước xứ Rio Branco- José Paranhos làm người đứng đầu nội các, mục tiêu chính của người này là thông qua một luật nhắm lập tức giải phóng cho toàn bộ trẻ em sinh ra từ các bà mẹ là nô lệ.[81] Dự luật gây tranh luận này được đưa ra Chúng nghị viện trong tháng 5 và đối diện với một sự phản đối kiên quyết từ khoảng một phần ba số đại biểu ủng hộ, họ còn tạo dư luận quần chúng chống đối.[82] Dự luật cuối cùng được ban hành trong tháng 9 và được gọi là "Luật Ra đời tự do".[82] Tuy nhiên, thành công của Tử tước xứ Rio Branco gây tổn thất nghiêm trọng đến ổn định chính trị trường kỳ của Đế quốc. Điều luật "phân chia những người bảo thủ làm hai nửa, một phái trong đảng ủng hộ các cải cách của nội các Tử tước xứ Rio Branco, trong khi phái thứ hai mang tên escravocratas (lãnh đạo phái ủng hộ chế độ nô lệ) không nguôi phản đối", hình thành một thế hệ bảo thủ cực đoan mới.[83]

"Luật Ra đời tự do" cùng sự ủng hộ của Pedro II dành cho nó khiến lòng trung thành vô điều kiện của những người bảo thủ cực đoan đối với chế độ quân chủ bị mất đi.[83] Đảng Bảo thủ trải qua phân tranh nghiêm trọng từ trước đó, trong thập niên 1850, khi Hoàng đế hoàn toàn ủng hộ chính sách hòa giải và khiến Đảng Tiến bộ nổi lên. Các nhân vật bảo thủ cực đoan dưới sự lãnh đạo của Eusébio, Uruguai và Itaboraí, những người phản đối hòa giải trong thập niên 1850 tuy thế vẫn tin rằng Hoàng đế không thể thiếu chức năng trong hệ thống chính trị: Hoàng đế là người phân xử tối hậu và công bằng khi bế tắc chính trị uy hiếp.[84] Ngược lại, thế hệ bảo thủ cực đoan mới này không trải qua thời kỳ nhiếp chính và những năm đầu Pedro II cai trị, khi các nguy cơ ngoại vụ và nội vụ uy hiếp ngay sự tồn tại của quốc gia; họ chỉ biết đến phồn vinh, hòa bình và một chính phủ ổn định.[26] Đối với họ—và với tầng lớp cai trị nói chung—sự hiện diện của một quân chủ trung lập, người có thể giải quyết các tranh chấp chính trị là điều không còn quan trọng. Hơn thế, kể từ khi Pedro II tỏ rõ lập trường chính trị trong vấn đề nô lệ, ông đã làm tổn hại đến vị thế trọng tài trung lập của mình. Những chính trị gia bảo thủ cực đoan trẻ tuổi nhận thấy không có lý do để tán thành hay bảo vệ chức hoàng đế.[85]

Suy tàn

Các nhược điểm trong chế độ quân chủ mất nhiều năm để hiện rõ, Brasil tiếp tục phồn vinh trong thập niên 1880, với kinh tế và xã hội đều phát triển nhanh chóng, trong đó việc thúc đẩy một cách có tổ chức lần đầu tiên cho nữ quyền (điều tiến triển chậm trong các thập niên sau đó ).[86] Ngược lại, các bức thư do Pedro II viết bộc lộ một nam giới trở nên chán đời cùng với độ tuổi, ngày càng xa lánh các sự kiện hiện thực và mang quan điểm bi quan.[87] Ông duy trì tính tỉ mỉ trong thực hiện các nhiệm vụ chính thức của Hoàng đế dù thường không nhiệt tình, song ông không còn tích cực can thiệp nhằm duy trì ổn định trong nước.[88] Ông ngày càng "lãnh đạm với vận mệnh của chế độ"[89] và không hành động để bảo vệ hệ thống đế quốc khi mà nó chịu mối đe dọa, do đó các sử gia quy cho bản thân hoàng đế "chịu trách nhiệm chủ yếu, có thể là duy nhất" cho việc chế độ quân chủ tan vỡ.[90]

Việc thiếu một người kế vị có thể đề xuất một phương hướng mới khả thi cho quốc gia cũng đe dọa đến triển vọng dài hạn của chế độ quân chủ Brasil. Người kế vị của Hoàng đế là con gái cả Isabel, song bà không quan tâm đến, mà cũng không kỳ vọng trở thành quân chủ.[91] Thậm chí dù cho hiến pháp cho phép nữ giới kế vị vương vị, song Brasil vẫn là một xã hội rất truyền thống, do nam giới chi phối, và quan điểm đang phổ biến là chỉ nam giới mới có thể trở thành nguyên thủ quốc gia.[92] Pedro II,[93] giới lãnh đạo[94] và tổ chức chính trị mở rộng đều nhận định một nữ giới kế vị là điều không thích hợp, và bản thân Pedro II cho rằng việc hai con trai của ông mất và thiếu nam giới kế vị là một tín hiệu rằng Đế quốc đã được định sẵn là bị thay thế.[93]

Một hoàng đế chán nản không còn quan tâm đến vương vị, một người thừa kế không mong muốn nhậm chức, một tầng lớp cầm quyền ngày càng bất mãn, tất cả các nhân tố này báo trước sự diệt vong sắp tới của đế quốc. Các biện pháp để hoàn thành phế truất hệ thống đế quốc sẽ sớm xuất hiện trong hàng ngũ quân đội. Chủ nghĩa cộng hòa chưa bao giờ phát triển mạnh tại Brasil, ngoại trừ các giới tinh hoa nhất định,[95][96] và có ít sự ủng hộ tại các tỉnh.[97] Tuy nhiên, gia tăng kết hợp các tư tưởng cộng hòa và thực chứng trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp và trung cấp trong quân đội, bắt đầu hình thành một mối đe dọa nghiêm trọng đối với chế độ quân chủ. Các quan chức này ủng hộ một chế độ độc tài cộng hòa, họ cho rằng nó ưu việt so với chế độ quân chủ dân chủ tự do.[98][99] Bắt đầu bằng những hành động bất phục tùng nhỏ khởi đầu trong thập niên 1880, bất mãn trong quân đội phát triển về phạm vi và mức táo bạo trong thập niên, khi Hoàng đế không quan tâm và các chính trị gia tỏ ra bất lực trong việc tái lập quyền lực của chính phủ đối với quân đội.[100]

Sụp đổ

Khoảnh khắc sau khi ký đạo luật bãi bỏ chế độ nô lệ, Công chúa Isabel được đám đông quần chúng dưới phố hoan hô

Brasil có được uy tín quốc tế đáng kể trong những năm cuối thời kỳ đế quốc[101] và đã trở thành một cường quốc mới nổi trên trường quốc tế. Trong khi Pedro II được điều trị y tế tại châu Âu, Đạo luật Hoàng kim được nghị viện thông qua, và Công chúa Isabel ký vào ngày 13 tháng 5 năm 1888, theo đó hoàn toàn bãi bỏ chế độ nô lệ tại Brasil.[102] Các dự đoán về đổ vỡ kinh tế và lao động bắt nguồn từ động thái bãi nô tỏ ra không có cơ sở.[103] Tuy thế, việc kết thúc chế độ nô lệ là cú đánh cuối cùng vào bất kỳ niềm tin còn lại nào vào tính trung lập của quân chủ, và điều này dẫn đến việc những người bảo thủ cực đoan dứt khoát chuyển sang ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa, [104] bản thân họ nhận được ủng hộ từ các nông dân cà phê giàu có và quyền lực, một thế lực nắm giữ quyền lực lớn về chính trị, kinh tế và xã hội trong nước.[105]

Nhằm ngăn chặn phản ứng dữ dội từ những người cộng hòa, chính phủ khai thác tín dụng sẵn có trong nước để thúc đẩy phát triển hơn nữa. Chính phủ mở rộng các khoản vay lớn với lãi suất ưu đãi cho các chủ sở hữu đồn điền và ban tặng hào phóng các tước hiệu cũng như các vinh dự nhỏ hơn để lấy lòng các nhân vật chính trị có ảnh hưởng vốn đã trở nên bất mãn.[106] Chính phủ cũng gián tiếp bắt đầu giải quyết vấn đề quân đội ngoan cố bằng việc hồi sinh Vệ binh quốc gia đang hấp hối, khi đó là một thực thể hầu như chỉ tồn tại trong văn kiện.[107]

Các biện pháp mà chính phủ thi hành báo động những người cộng hòa dân sự và phái thực chứng trong quân đội. Những người cộng hòa nhận thấy rằng động thái này sẽ làm hao mòn ủng hộ giành cho các mục tiêu của họ, và trở nên táo bạo hành động hơn nữa.[99] Nội các bắt đầu tái tổ chức Vệ binh quốc gia vào tháng 8 năm 1889, và lập nên một lực lượng kình địch khiến những người bất mãn trong giới sĩ quan cân nhắc các biện pháp liều lĩnh.[108] Đối với cả hai nhóm cộng hòa và quân đội, tình thế nay trở thành "bây giờ hoặc không bao giờ".[109] Mặc dù đa số người Brasil không mưu cầu thay đổi chính thể quốc gia,[110] song những người cộng hòa bắt đầu áp lực lên các sĩ quan quân đội nhằm phế truất chế độ quân chủ.[111]

Họ tiến hành một cuộc đảo chính và lập nên chế độ cộng hòa vào ngày 15 tháng 11 năm 1889.[112] Một vài người chứng kiến điều xảy ra song không nhận biết được đây là một hành động nổi loạn.[113][114] Sử gia Lídia Besouchet lưu ý rằng "hiếm có cuộc cách mạng nào nhỏ đến vậy."[115] Trong suốt cuộc đảo chính, Pedro II không thể hiện xúc động, như thể không quan tâm về kết quả.[116] Ông bác bỏ tất cả các đề nghị đàn áp nổi loạn đến từ các chính trị gia và thủ lĩnh quân đội.[117] Hoàng đế và gia đình bị đưa đi lưu vong vào ngày 17 tháng 11.[118] Mặc dù có phản công từ lực lượng bảo hoàng sau khi đế quốc sụp đổ, song bị đàn áp hoàn toàn,[119] và Pedro II cùng con gái ông đều không ủng hộ phục vị.[120] Mặc dù không biết về kế hoạch đảo chính, song khi nó xảy ra và căn cứ sự chấp thuận thụ động tình thế của Hoàng đế, giới chính trị ủng hộ kết thúc chế độ quân chủ để lập chế độ cộng hòa. Họ không biết rằng mục tiêu của những thủ lĩnh đảo chính là lập ra một chế độ cộng hòa độc tài thay vì một chế độ cộng hòa tổng thống hay nghị viện.[121]

Chính phủ

Nghị viện

Tham nghị viện Brasil, 1888. Các nghị sĩ bỏ phiếu về Đạo luật Hoàng kim

Điều 2 của Hiến pháp Brasil xác định vị thế của Hoàng đế và Assembleia Geral (Đại hội đồng hay Nghị viện), cơ cấu này vào năm 1824 gồm có 50 tham nghị viên và 102 chúng nghị viên, là các đại biểu của quốc dân. Hiến pháp cung cấp vị thế và quyền lực cho Nghị viện, và lập ra các nhánh lập pháp, thẩm tra, hành pháp và tư pháp làm "các phái đoàn quốc dân" với quyền lực riêng biệt được dự tính là cân bằng nhằm hỗ trợ hiến pháp và các quyền lợi mà chúng nắm giữ.[122]

Các đặc quyền và quyền lực ban cho cơ quan lập pháp trong Hiến pháp có nghĩa rằng nó có thể và sẽ đóng vai trò lớn và không thể thiếu trong hoạt động của chính phủ—nó không chỉ là cỗ máy biểu quyết. Chỉ duy Đại hội đồng có thể ban hành, thu hồi, giải thích và đình chỉ các luật theo Điều 13 của Hiến pháp. Cơ quan lập pháp cũng giữ quyền lực ngân sách và được yêu cầu ủy quyền chi tiêu và thuế hàng năm. Chỉ cơ cấu này có thể phê chuẩn và thực thi giám sát các khoản vay và nợ của chính phủ. Các trách nhiệm khác được giao phó cho Đại hội đồng bao gồm quyết định quy mô của lực lượng quân sự, lập các chức vụ trong chính phủ, kiểm tra phúc lợi quốc gia và đảm bảo rằng chính phủ được điều hành phù hợp với Hiến pháp. Điều khoản cuối cùng này cho phép cơ quan lập pháp mở rộng thẩm quyền để thẩm tra và tranh luận chính sách và điều hành của chính phủ.[123]

Về vấn đề chính sách đối ngoại, Hiến pháp (theo Điều 102) yêu cầu rằng Đại hội đồng được tham vấn về tuyên chiến, các hiệp định và chỉ đạo quan hệ quốc tế. Một nhà lập pháp kiên quyết có thể tận dụng các điều khoản hiến pháp để ngăn chặn hoặc hạn chế các quyết định của chính phủ, tác động đến việc bổ nhiệm và buộc tái xét các chính sách.[124]

Trong các phiên họp kéo dài bốn tháng mỗi năm, Đại hội đồng tiến hành thảo luận công khai. Chúng được thông báo rộng rãi và hình thành một diễn đàn quốc gia để biểu lộ mối quan tâm của công chúng từ toàn bộ các địa phương trong nước. Nó thường xuyên là một nơi để biểu thị phản đối các chính sách và trình bày các bất bình. Các nhà lập pháp được miễn truy tố đối với các phát biểu trong phòng họp và thực thi nhiệm vụ của mình. Chỉ có phòng thẩm phán trong Đại hội đồng có thể ra lệnh bắt giữ một thành viên trong nhiệm kỳ của người đó. "Khi không phải chịu trách nhiệm thực khi thi hành công vụ thực tế, các nhà lập pháp được tự do đề xuất các cải cách bao quát, tán thành các giải pháp lý tưởng, tố cáo hành vi gây hại và cơ hội của chính phủ."[124]

Hoàng đế và hội đồng bộ trưởng

Các chính trị gia nổi bật và nhân vật quốc gia vây quanh Hoàng đế Pedro II, khoảng năm 1875

Hoàng đế đứng đầu nhánh thẩm tra và hành pháp (lần lượt được hỗ trợ từ Hội đồng Quốc gia và Hội đồng Bộ trưởng); ông có tiếng nói quyết định và quyền lực tối hậu đối với chính phủ quốc gia.[122] Ông có nhiệm vụ đảm bảo độc lập và ổn định của quốc gia. Hiến pháp (Điều 101) trao cho ông rất ít cách thức để áp đặt ý chí của bản thân lên Đại hội đồng, trong đó ông có quyền giải tán hoặc kéo dài các phiên họp của cơ quan lập pháp. Tại Tham nghị viện, hoàng đế có một quyền lực là bổ nhiệm các nghị viên song điều này không nhất thiết nâng cao ảnh hưởng của ông do các nghị viên giữ chức trọn đời và do đó thoát khỏi áp lực từ chính phủ một khi họ được phê chuẩn. Trong những lần Chúng nghị viện bị giải tán, các cuộc bầu cử mới được yêu cầu tổ chức lập tức và khóa nghị viên mới được bầu ra. "Quyền lực này hữu hiệu do bảo lưu một mối đe dọa. Nó không để dùng được nhiều lần, cũng không thể được sử dụng để mang thuận lợi cho hoàng đế."[124]

Trong thời gian trị vì của Pedro I, Chúng nghị viện chưa từng bị giải tán và các phiên họp lập pháp chưa từng phải kéo dài hay bị hoãn.[125] Dưới thời Pedro II, Chúng nghị việc chỉ từng bị giải tán theo thỉnh cầu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng). Tổng thể có 11 lần giải thể Chúng nghị viện trong thời Pedro II cai trị, tng số đó 10 lần là sau khi tham khảo với Hội đồng Quốc gia, là điều nằm ngoài yêu cầu của Hiến pháp.[126] Thế cân bằng quyền lực theo hiến pháp tồn tại giữa Đại hội đồng và nhánh hành pháp dưới quyền Hoàng đế. Cơ quan lập pháp không thể tự vận hành và quân chủ không thể áp đặt ý chí của mình cho Đại hội đồng. Hệ thống hoạt động trơn chu chỉ khi Đại hội đồng và Hoàng đế hành động trên tinh thần hợp tác vì lợi ích quốc gia.[124]

Một yếu tố mới được thêm vào khi chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng" chính thức được lập ra vào năm 1847—song đã tồn tại trên thực tiễn từ năm 1843. Chủ tịch có địa vị trong đảng của mình và trước Hoàng đế, và chúng đôi khi có thể xung đột. Thủ lĩnh bãi nô và sử gia thế kỷ 19 Joaquim Nabuco nói rằng "Chủ tịch Hội đồng tại Brasil không phải như Thủ tướng Nga, thuộc hạ của quân chủ, cũng không như Thủ tướng Anh Quốc, chỉ thực hiện theo ủy thác của Thứ dân viện: ủy nhiệm của quân chủ đối với ông cần thiết và quan trọng như ủy nhiệm của Nghị viện, và và nhằm sử dụng an toàn chức trách của mình, ông đã kiềm chế tính thất thường, sự lưỡng lự và tham vọng của nghị viện, cũng như luôn duy trì bất biến sự ủng hộ, thiện ý của hoàng đế."[127]

Chính quyền cấp tỉnh và địa phương

Salvador là một thành phố lớn và là thủ phủ của tỉnh Bahia tại miền đông bắc, 1870
Rio de Janeiro là một đại đô thị và là thủ đô của đế quốc, 1889.

Tham khảo

  1. ^ Viana 1994, tr. 42–44.
  2. ^ Viana 1994, tr. 59, 65, 66, 78, 175, 181, 197, 213, 300.
  3. ^ Barman 1988, tr. 43–44.
  4. ^ Barman 1988, tr. 72.
  5. ^ Viana 1994, tr. 396.
  6. ^ Barman 1988, tr. 75, 81–82.
  7. ^ Viana 1994, tr. 399, 403.
  8. ^ Viana 1994, tr. 408–408.
  9. ^ Barman 1988, tr. 96.
  10. ^ Viana 1994, tr. 417–418.
  11. ^ Barman 1988, tr. 101–102.
  12. ^ Viana 1994, tr. 420–422.
  13. ^ Barman 1988, tr. 104–106.
  14. ^ Barman 1988, tr. 128.
  15. ^ a b Barman 1988, tr. 131.
  16. ^ Barman 1988, tr. 142.
  17. ^ Barman 1988, tr. 151.
  18. ^ Barman 1988, tr. 148–149.
  19. ^ Barman 1999, tr. 18–19.
  20. ^ Barman 1999, tr. 19.
  21. ^ Barman 1988, tr. 159.
  22. ^ Barman 1988, tr. 160.
  23. ^ Barman 1988, tr. 161–163.
  24. ^ Barman 1999, tr. 61.
  25. ^ Barman 1988, tr. 179–180.
  26. ^ a b Barman 1999, tr. 317.
  27. ^ Barman 1999, tr. 64.
  28. ^ Barman 1999, tr. 58.
  29. ^ Barman 1999, tr. 68–73.
  30. ^ Barman 1999, tr. 49.
  31. ^ a b Barman 1999, tr. 109.
  32. ^ Barman 1999, tr. 114.
  33. ^ a b Barman 1999, tr. 123.
  34. ^ Barman 1999, tr. 122.
  35. ^ Barman 1999, tr. 122–123.
  36. ^ Barman 1999, tr. 124.
  37. ^ a b c Barman 1999, tr. 125.
  38. ^ Barman 1999, tr. 126.
  39. ^ Carvalho 2007, tr. 102–103.
  40. ^ Levine 1999, tr. 63–64.
  41. ^ See:
  42. ^ a b Barman 1999, tr. 159.
  43. ^ a b Vainfas 2002, tr. 343.
  44. ^ Lira 1977, Vol 1, tr. 182.
  45. ^ Barman 1999, tr. 162.
  46. ^ See:
  47. ^ Barman 1999, tr. 166.
  48. ^ Nabuco 1975, tr. 162.
  49. ^ Nabuco 1975, tr. 313.
  50. ^ Nabuco 1975, tr. 346, 370, 373, 376.
  51. ^ Nabuco 1975, tr. 346.
  52. ^ Nabuco 1975, tr. 364–365.
  53. ^ Nabuco 1975, tr. 378.
  54. ^ Nabuco 1975, tr. 374–376.
  55. ^ Barman 1999, tr. 192.
  56. ^ See:
  57. ^ See:
  58. ^ Calmon 1975, tr. 680.
  59. ^ Doratioto 2002, tr. 98, 203.
  60. ^ Calmon 1975, tr. 684.
  61. ^ See:
  62. ^ See:
  63. ^ Lira 1977, Vol 1, tr. 220.
  64. ^ See:
  65. ^ Carvalho 2007, tr. 109.
  66. ^ Lira 1977, Vol 1, tr. 227.
  67. ^ Calmon 1975, tr. 748.
  68. ^ Lira 1977, Vol 1, tr. 237.
  69. ^ a b Barman 1999, tr. 222.
  70. ^ Nabuco 1975, tr. 592.
  71. ^ a b Barman 1999, tr. 223.
  72. ^ Nabuco 1975, tr. 666.
  73. ^ Barman 1999, tr. 229–230.
  74. ^ Doratioto 2002, tr. 461.
  75. ^ Doratioto 2002, tr. 462.
  76. ^ Calmon 2002, tr. 201.
  77. ^ Munro 1942, tr. 276.
  78. ^ Barman 1999, tr. 243.
  79. ^ a b Lira 1977, Vol 2, tr. 9.
  80. ^ Barman 1999, tr. 240.
  81. ^ Barman 1999, tr. 235.
  82. ^ a b Barman 1999, tr. 238.
  83. ^ a b Barman 1999, tr. 261.
  84. ^ Barman 1999, tr. 234, 317.
  85. ^ Barman 1999, tr. 318.
  86. ^ See:
  87. ^ Barman 1999, tr. 298–299.
  88. ^ Barman 1999, tr. 299.
  89. ^ Lira 1977, Vol 3, tr. 126.
  90. ^ Barman 1999, tr. 399.
  91. ^ Barman 1999, tr. 262–263.
  92. ^ Barman 1999, tr. 130.
  93. ^ a b Barman 1999, tr. 262.
  94. ^ Barman 1999, tr. 268.
  95. ^ Barman 1999, tr. 349.
  96. ^ Lira 1977, Vol 3, tr. 121.
  97. ^ See:
  98. ^ Carvalho 2007, tr. 195.
  99. ^ a b Barman 1999, tr. 353.
  100. ^ Barman 1999, tr. 353–355.
  101. ^ Topik 2000, tr. 56.
  102. ^ Barman 1999, tr. 341.
  103. ^ Barman 1999, tr. 346.
  104. ^ Lira 1977, Vol 3, tr. 78.
  105. ^ See:
  106. ^ Barman 1999, tr. 351.
  107. ^ Barman 1999, tr. 355.
  108. ^ Barman 1999, tr. 356.
  109. ^ Barman 1999, tr. 353–356.
  110. ^ Ermakoff 2006, tr. 189.
  111. ^ Schwarcz 1998, tr. 450.
  112. ^ See:
  113. ^ Schwarcz 1998, tr. 459.
  114. ^ Lira 1977, Vol 3, tr. 96.
  115. ^ Besouchet 1993, tr. 538.
  116. ^ Barman 1999, tr. 361.
  117. ^ See:
  118. ^ Carvalho 2007, tr. 220.
  119. ^ Salles 1996, tr. 194.
  120. ^ Barman 1999, tr. 394.
  121. ^ Lira 1977, Vol 3, tr. 119–120.
  122. ^ a b Barman 1988, tr. 132.
  123. ^ Barman 1988, tr. 132–133.
  124. ^ a b c d Barman 1988, tr. 133.
  125. ^ Viana 1994, tr. 476.
  126. ^ Carvalho 1993, tr. 42.
  127. ^ Nabuco 1975, tr. 712.
  • Adas, Melhem (2004). Panorama geográfico do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 4). São Paulo: Moderna. ISBN 85-16-04336-3.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Alencastro, Luiz Felipe de (1997). História da vida privada no Brasil: Império (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Companhia das Letras. ISBN 85-7164-681-3.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Azevedo, Aroldo (1971). O Brasil e suas regiões (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Companhia Editora Nacional.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Baer, Werner (2002). A Economia Brasileira (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 2). São Paulo: Nobel. ISBN 85-213-1197-4.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Barman, Roderick J. (1988). Brazil: The Forging of a Nation, 1798–1852. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-1437-1.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Barman, Roderick J. (1999). Citizen Emperor: Pedro II and the Making of Brazil, 1825–1891. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-3510-7.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Barsa (1987b). “Maranhão”. Enciclopédia Barsa (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 10. Rio de Janeiro: Encyclopædia Britannica do Brasil.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Besouchet, Lídia (1985) [1945]. José Maria Paranhos: Visconde do Rio Branco: ensaio histórico-biográfico (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Nova Fronteira. OCLC 14271198.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Besouchet, Lídia (1993). Pedro II e o Século XIX (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 2). Rio de Janeiro: Nova Fronteira. ISBN 85-209-0494-7.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Bethell, Leslie (1993). Brazil: Empire and Republic, 1822–1930. Cambridge, United Kingdom: Cambridge University Press. ISBN 0-521-36293-8.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Boxer, Charles R. (2002). O império marítimo português 1415–1825 (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Companhia das Letras. ISBN 85-359-0292-9.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Calmon, Pedro (1975). História de D. Pedro II (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 1–5. Rio de Janeiro: J. Olympio.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Calmon, Pedro (2002). História da Civilização Brasileira (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brasília: Senado Federal. OCLC 685131818.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Carvalho, Affonso de (1976). Caxias (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Biblioteca do Exército. OCLC 2832083.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Carvalho, José Murilo de (1993). A Monarquia brasileira (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Ao Livro Técnico. ISBN 85-215-0660-0.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Carvalho, José Murilo de (2002). Os Bestializados: o Rio de Janeiro e a República que não foi (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 3). São Paulo: Companhia das Letras. ISBN 85-85095-13-X.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Carvalho, José Murilo de (2007). D. Pedro II: ser ou não ser (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Companhia das Letras. ISBN 978-85-359-0969-2.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Carvalho, José Murilo de (2008). Cidadania no Brasil: o longo caminho (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 10). Rio de Janeiro: Civilização Brasileira. ISBN 85-200-0565-9.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Coelho, Marcos Amorim (1996). Geografia do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 4). São Paulo: Moderna.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Dolhnikoff, Miriam (2005). Pacto imperial: origens do federalismo no Brasil do século XIX (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Globo. ISBN 85-250-4039-8.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Doratioto, Francisco (2002). Maldita Guerra: Nova história da Guerra do Paraguai (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Companhia das Letras. ISBN 85-359-0224-4.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Holanda, Sérgio Buarque de (1974). História Geral da Civilização Brasileira: Declínio e Queda do Império (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 2). São Paulo: Difusão Européia do Livro.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Ermakoff, George (2006). Rio de Janeiro – 1840–1900 – Uma crônica fotográfica (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: G. Ermakoff Casa Editorial. ISBN 85-98815-05-5.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Fausto, Boris (1995). História do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Fundação de Desenvolvimento da Educação. ISBN 85-314-0240-9.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Fausto, Boris; Devoto, Fernando J. (2005). Brasil e Argentina: Um ensaio de história comparada (1850–2002) (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 2). São Paulo: Editoria 34. ISBN 85-7326-308-3.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Graça Filho, Afonso de Alencastro (2004). A economia do Império brasileiro (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Atual. ISBN 85-357-0443-4.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Graham, Richard (1994). Patronage and Politics in Nineteenth-Century Brazil. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-2336-2.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Levine, Robert M. (1999). The History of Brazil. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN 0-313-30390-8.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Lyra, Heitor (1977a). História de Dom Pedro II (1825–1891): Ascenção (1825–1870) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 1. Belo Horizonte: Itatiaia.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Lyra, Heitor (1977b). História de Dom Pedro II (1825–1891): Fastígio (1870–1880) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 2. Belo Horizonte: Itatiaia.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Lyra, Heitor (1977c). História de Dom Pedro II (1825–1891): Declínio (1880–1891) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 3. Belo Horizonte: Itatiaia.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Moreira, Igor A. G. (1981). O Espaço Geográfico, geografia geral e do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 18). São Paulo: Ática.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Munro, Dana Gardner (1942). The Latin American Republics: A History. New York: D. Appleton.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Nabuco, Joaquim (1975). Um Estadista do Império (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 4). Rio de Janeiro: Nova Aguilar.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Olivieri, Antonio Carlos (1999). Dom Pedro II, Imperador do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Callis. ISBN 85-86797-19-7.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Parkinson, Roger (2008). The Late Victorian Navy: The Pre-Dreadnought Era and the Origins of the First World War. Woodbridge, Suffolk: The Boydell Press. ISBN 978-1-84383-372-7.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Pedrosa, J. F. Maya (2004). A Catástrofe dos Erros: razões e emoções na guerra contra o Paraguai (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Biblioteca do Exército. ISBN 85-7011-352-8.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Ramos, Arthur (2003). A mestiçagem no Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Maceió: EDUFAL. ISBN 85-7177-181-2.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Rodrigues, José Carlos (1863). Constituição política do Império do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Typographia Universal de Laemmert.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Rodrigues, José Honório (1975). Independência: Revolução e Contra-Revolução – A política internacional (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 5. Rio de Janeiro: F. Alves.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Rodrigues, José Honório (1995). Uma história diplomática do Brasil, 1531–1945 (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Civilização Brasileira. ISBN 85-200-0391-5.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Salles, Ricardo (1996). Nostalgia Imperial (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Topbooks. OCLC 36598004.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Schwarcz, Lilia Moritz (1998). As barbas do Imperador: D. Pedro II, um monarca nos trópicos (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 2). São Paulo: Companhia das Letras. ISBN 85-7164-837-9.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Skidmore, Thomas E. (2003). Uma História do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Paz e Terra. ISBN 85-219-0313-8.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Smith, Joseph (2010). Brazil and the United States: Convergence and Divergence. Athens, Georgia: University of Georgia Press. ISBN 978-0-8203-3733-3.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Sodré, Nelson Werneck (2004). Panorama do Segundo Império (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 2). Rio de Janeiro: Graphia. ISBN 85-85277-21-1.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Topik, Steven C. (2000). Trade and Gunboats: The United States and Brazil in the Age of Empire. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-4018-6.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Vainfas, Ronaldo (2002). Dicionário do Brasil Imperial (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Rio de Janeiro: Objetiva. ISBN 85-7302-441-0.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Vasquez, Pedro Karp (2007). Nos trilhos do progresso: A ferrovia no Brasil imperial vista pela fotografia (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Metalivros. ISBN 978-85-85371-70-8.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Vesentini, José William (1988). Brasil, sociedade e espaço – Geografia do Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 7). São Paulo: Ática. ISBN 85-08-02340-5.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Vianna, Hélio (1968). Vultos do Império (bằng tiếng Bồ Đào Nha). São Paulo: Companhia Editora Nacional.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Vianna, Hélio (1994). História do Brasil: período colonial, monarquia e república (bằng tiếng Bồ Đào Nha) (ấn bản 15). São Paulo: Melhoramentos. ISBN 85-06-01999-0.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)