Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Đình Tứ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 58: | Dòng 58: | ||
* Tại đây, ông là cộng tác viên, người lãnh đạo tập thể khoa học quốc tế thuộc Phòng thí nghiệm Năng lượng cao (LVE) và là một trong những tác giả chính của hơn 50 công trình nghiên cứu khoa học trong [[thập niên 1960]]. |
* Tại đây, ông là cộng tác viên, người lãnh đạo tập thể khoa học quốc tế thuộc Phòng thí nghiệm Năng lượng cao (LVE) và là một trong những tác giả chính của hơn 50 công trình nghiên cứu khoa học trong [[thập niên 1960]]. |
||
* Năm 1961, khi vừa tròn 30 tuổi, Nguyễn Đình Tứ đã thay mặt nhóm phát minh, báo cáo kết quả phát minh tại diễn đàn Hội nghị khoa học quốc tế ở Tây Âu. |
* Năm 1961, khi vừa tròn 30 tuổi, Nguyễn Đình Tứ đã thay mặt nhóm phát minh, báo cáo kết quả phát minh tại diễn đàn Hội nghị khoa học quốc tế ở Tây Âu. |
||
* Về nước, ông đã dành nhiều tâm lực cho việc hình thành ngành Năng lượng nguyên tử của đất nước và là người đặt nền móng cho ngành năng lượng nguyên tử<ref>http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-hoc/item/29988002-gs-nguyen-dinh-tu-nguoi-sang-lap-va-phat-trien-nganh-nang-luong-nguyen-tu-viet-nam.html</ref>. Sau 5 năm, từ một phòng nghiên cứu thuộc Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước do ông lãnh đạo, tháng 4/1976, Viện nghiên cứu hạt nhân [[Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia]]trực thuộc Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước được thành lập do ông làm Viện trưởng trong thời gian dài (1976 - 1993)<ref>http://www.vinatom.gov.vn/thong-tin-chung/lich-su-phat-trien.aspx</ref>. |
* Về nước, ông đã dành nhiều tâm lực cho việc hình thành ngành Năng lượng nguyên tử của đất nước và là người đặt nền móng cho ngành năng lượng nguyên tử<ref>http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-hoc/item/29988002-gs-nguyen-dinh-tu-nguoi-sang-lap-va-phat-trien-nganh-nang-luong-nguyen-tu-viet-nam.html</ref>. Sau 5 năm, từ một phòng nghiên cứu thuộc Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước do ông lãnh đạo, tháng 4/1976, Viện nghiên cứu hạt nhân [[Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia]] trực thuộc Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước được thành lập do ông làm Viện trưởng trong thời gian dài (1976 - 1993)<ref>http://www.vinatom.gov.vn/thong-tin-chung/lich-su-phat-trien.aspx</ref>. |
||
* Ông từng là Phó Chủ tịch [[Hội Vật lý Việt Nam]] (1966-1985), Phó Hiệu trưởng Trường [[Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội|Đại học Tổng hợp Hà Nội]] (tháng 7, 1971 - tháng 3, 1976), |
* Ông từng là Phó Chủ tịch [[Hội Vật lý Việt Nam]] (1966-1985), Phó Hiệu trưởng Trường [[Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội|Đại học Tổng hợp Hà Nội]] (tháng 7, 1971 - tháng 3, 1976), |
||
Phiên bản lúc 06:24, ngày 31 tháng 10 năm 2016
Nguyễn Đình Tứ | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 7, 1976 – 26 tháng 2, 1987 10 năm, 238 ngày |
Tiền nhiệm | Tạ Quang Bửu |
Kế nhiệm | Trần Hồng Quân |
Vị trí | Việt Nam |
Thứ trưởng | Võ Thuần Nho[cần dẫn nguồn] [[[Lê Liêm]][cần dẫn nguồn] Lê Văn Gạng[cần dẫn nguồn] Nguyễn Cảnh Toàn[cần dẫn nguồn] Đặng Quốc Bảo |
Thông tin chung | |
Sinh | Can Lộc - Hà Tĩnh | 1 tháng 10, 1932
Mất | 28 tháng 6, 1996 Hà Nội | (63 tuổi)
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Nguyễn Thu Nhạn |
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Tứ (1932-1996) là một nhà vật lý hạt nhân, nhà lãnh đạo nền khoa học Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia, nguyên Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Sơ lược tiểu sử
- Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1932 tại xã Song Lộc, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình trí thức nghèo.
- Ông học phổ thông tại trường Trung học Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh), ban Toán - Lý trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng (Vinh).
- Từ năm 1951-1957, ông được Nhà nước cử sang Trung Quốc học tập. Tại đây ông đã theo học chuyên ban (2 năm), học Trung văn (1 năm) và học ngành Thuỷ lợi - Thuỷ điện trong 4 năm ở Đại học Vũ Hán, Trung Quốc.
- Đến giữa năm 1957, ông tốt nghiệp loại ưu và được đề nghị chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh. Một vinh dự lớn lao đã đến với ông khi ông được Nhà nước chọn và cử ông lãnh đạo một đoàn gồm 3 nhà khoa học trẻ của Việt Nam: Nguyễn Đình Tứ, Dương Trọng Bái và Nguyễn Hữu Công sang công tác tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Đúp na (Liên Xô cũ)
- Tại đây, ông là cộng tác viên, người lãnh đạo tập thể khoa học quốc tế thuộc Phòng thí nghiệm Năng lượng cao (LVE) và là một trong những tác giả chính của hơn 50 công trình nghiên cứu khoa học trong thập niên 1960.
- Năm 1961, khi vừa tròn 30 tuổi, Nguyễn Đình Tứ đã thay mặt nhóm phát minh, báo cáo kết quả phát minh tại diễn đàn Hội nghị khoa học quốc tế ở Tây Âu.
- Về nước, ông đã dành nhiều tâm lực cho việc hình thành ngành Năng lượng nguyên tử của đất nước và là người đặt nền móng cho ngành năng lượng nguyên tử[1]. Sau 5 năm, từ một phòng nghiên cứu thuộc Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước do ông lãnh đạo, tháng 4/1976, Viện nghiên cứu hạt nhân Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia trực thuộc Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước được thành lập do ông làm Viện trưởng trong thời gian dài (1976 - 1993)[2].
- Ông từng là Phó Chủ tịch Hội Vật lý Việt Nam (1966-1985), Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (tháng 7, 1971 - tháng 3, 1976),
- Năm 1976 ông bắt đầu tham gia chính trường, giữ chức Thứ trưởng (tháng 4 - tháng 6, 1976) rồi Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (tháng 6, 1976 - tháng 2, 1987), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Ban Khoa giáo Trung ương Đảng.
- Tại phiên họp trù bị Đại hội VIII, ngày 27 tháng 6 năm 1996, ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Ngày 28 tháng 6, Đại hội khai mạc; 20 giờ tối hôm 28, ông qua đời đột ngột sau một tai biến bất thường. Ngày 30 tháng 6, ông vẫn được Đại hội chính thức bầu vào Bộ Chính trị. Sau đó người ta mới báo tang và làm các thủ tục tang lễ.
- Năm 2000 ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ cho Cụm công trình: "Nghiên cứu tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao và phát hiện phản hạt hyperon sigma âm".
- Ngày 30 tháng 7 năm 2007, ông được Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh[1].
Gia đình
- Vợ ông là Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Thu Nhạn, nguyên Giám đốc Bệnh viện Nhi TW, hiện là Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam. Hai con trai ông là Nguyễn Mạc Hà và Nguyễn Việt Hùng.[cần dẫn nguồn].
Gia đình ông Tứ có tất cả 6 anh em trai, được cha mẹ đặt tên là Thiên, Tứ, Lương, Đống, Nhân, Nghĩa, toàn những cái tên hay (Thiên-Tứ, Lương-Đống, Nhân-Nghĩa). Và cả thảy 6 anh em đều học cao, đỗ đạt cao.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thể loại:
- Sơ khai chính khách Việt Nam
- Sinh năm 1932
- Mất năm 1996
- Nhà vật lý Việt Nam
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Giải thưởng Hồ Chí Minh
- Người Hà Tĩnh
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 8
- Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII
- Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam
- Đại học Quốc gia Hà Nội
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 6
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 7
- Huân chương Lao động