Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Tây Ban Nha”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{Infobox former country |
|||
{{Thông tin quốc gia |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
| native_name = {{plainlist| |
|||
⚫ | |||
* Tất cả thuộc về Quân chủ Tây Ban Nha |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
⚫ | |||
* Monarquía universal Española |
|||
|Chú thích bản đồ= Lãnh thổ từng thuộc Đế quốc Tây Ban Nha |
|||
* Monarquía Hispánica}} |
|||
|Ghi chú = |
|||
|conventional_long_name = Đế quốc Tây Ban Nha |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
| status = Đế chế Thiên chúa<ref>{{cite book|last1=Cierva|first1=Ricardo de la|title=Historia total de Espana / Total History of Spain.|date=2010|publisher=Editorial Fenix|location=Madrid|isbn=8488787618|edition=14a.}}</ref> |
|||
⚫ | |||
|year_start = 1492 |
|||
{{legend|#FF0000|Lãnh thổ mất trước và trong [[Hispanic American wars of independence|Hispanic American wars of independence (1811–1828)]].}} |
|||
|year_end = 1975 |
|||
⚫ | |||
|p1 = Vuơng quyền Castile |
|||
{{legend|#23A20D|Territories granted independence during the [[Decolonization of Africa|Decolonization of Africa (1956–1976)]].}} |
|||
|flag_p1 = Banner of arms crown of Castille Habsbourg style.svg |
|||
|p2 = Vương quyền Aragon |
|||
|flag_p2 = Royal Banner of Arag%C3%B3n.svg |
|||
|p3 = Vương quốc Granada |
|||
|flag_p3 = Banner of the Kingdom of Granada.svg |
|||
|p4 = Vương quốc Navarre |
|||
|flag_p4 = Bandera de Reino de Navarra.svg |
|||
|p5 = Hà Lan Burgundy |
|||
|flag_p5 = Flag of the Low Countries.svg |
|||
|p6 = Công quốc Giáo phận Utrecht |
|||
|flag_p6 = Flag of the prince-bishopric of Utrecht.svg |
|||
|p7 = Đế chế Aztec |
|||
|flag_p7 = Aztec Triple Alliance.png |
|||
|p8 = Đế chế Inca |
|||
|flag_p8 = Banner of the Inca Empire.svg |
|||
|p9 = Văn minh Maya |
|||
|p10 = Thổ dân châu Mỹ |
|||
|p11 = Vương quốc Tondo |
|||
|flag_p11 = Lakandula's Flag.svg |
|||
|p12 = Liên hiệp Madja-as |
|||
|flag_p12 = Barter of Panay Landmark.jpg |
|||
|p13 = Louisiana (Tân Pháp) |
|||
|flag_p13 = Pavillon royal de France.svg |
|||
|s1 = Tây Ban Nha |
|||
|flag_s1 = Flag of Spain.svg |
|||
|s2 = Đệ nhất Đế chế Mexico |
|||
|flag_s2 = Flag of Mexico (1821-1823).svg |
|||
|s3 = Đại Colombia |
|||
|flag_s3 =Flag of the Gran Colombia (1819-1820).svg |
|||
| s4 = Các tỉnh thống nhất Río de la Plata |
|||
| s5 = Chile |
|||
| s6 = Bolivia |
|||
| flag_s4 = Flag of Argentina (alternative).svg |
|||
| flag_s5 = Flag of Paraguay (1813).png |
|||
| flag_s6 = Flag of Bolivia (state, 1825-1826).svg |
|||
| s7 = Bảo hộ Peru |
|||
|flag_s7 = Flag of Peru (1821 - 1822).svg |
|||
| s8 =Đệ nhất Cộng hòa Philippine |
|||
| flag_s8 = Philippines Aguinaldo flag (obverse).svg |
|||
| s9 = Guinea Xích đạo |
|||
| flag_s9 = Flag of Equatorial Guinea (without coat of arms).svg |
|||
|s10 = Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Sahrawi |
|||
|flag_s10 = Flag of Western Sahara.svg |
|||
|s11 = Louisiana (Tân Pháp) |
|||
|flag_s11 = Flag of France.svg |
|||
|s12 = Lãnh thổ Florida |
|||
|flag_s12 = US flag 23 stars.svg |
|||
|s13 = Chính phủ Quân sự Hoa Kỳ tại Cuba |
|||
|flag_s13 = US flag 45 stars.svg |
|||
|s14 = Puerto Rico |
|||
|flag_s14 = Flag of Puerto Rico.svg |
|||
|capital = {{plainlist| |
|||
* [[Madrid]] (1561–1601) |
|||
* [[Valladolid]] (1601–06) |
|||
* [[Madrid]] (từ 1606)}} |
|||
|national_motto = {{native phrase|la|"[[Plus ultra (motto)|Plus ultra]]"|italics=no}} <br /> {{small|"Mở rộng hơn nữa"}} |
|||
|national_anthem = |
|||
|common_languages = [[Tiếng Tây Ban Nha]] |
|||
|government_type = {{plainlist| |
|||
* [[Quân chủ hợp nhất]] (Habsburgs) |
|||
* [[Quân chủ chuyên chế]] (Bourbons)}} |
|||
|title_leader = [[Chế độ quân chủ Tây Ban Nha|Vua]] |
|||
|leader1 =[[Vua Tây Ban Nha]] |
|||
|religion = [[Thiên chúa giáo]] |
|||
⚫ | |||
|image_map_caption = Lãnh thổ trên toàn thế giới trong đó bao gồm từng là lãnh thổ quân chủ Tây Ban Nha và Đế quốc. |
|||
| footnotes = |
|||
⚫ | |||
⚫ | |||
{{legend|#FF0000|Lãnh thổ bị mất do [[Chiến tranh độc lập Châu Mỹ khỏi Tây Ban Nha]] (1808–1833).}} |
|||
⚫ | |||
{{legend|#23A20D|Lãnh thổ cấp độc lập do [[Phi thực dân hóa Châu Phi]] (1956–1976).}} |
|||
{{legend|#713620|Lãnh thổ hiện quản lý bởi [[Tây Ban Nha]].}} |
{{legend|#713620|Lãnh thổ hiện quản lý bởi [[Tây Ban Nha]].}} |
||
|continent = Toàn cầu |
|||
}} |
}} |
||
'''Đế quốc Thực dân Tây Ban Nha''' là một trong những đế quốc lớn nhất [[thế giới]] và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. |
'''Đế quốc Thực dân Tây Ban Nha''' ({{lang-es|Imperio español}}) là một trong những đế quốc lớn nhất [[thế giới]] và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực thịnh về quân sự, quyền lực chính trị và kinh tế dưới [[Nhà Habsburg|vương triều Habsburgs]] Tây Ban Nha, trong thế kỷ 16 và 17, có phạm vi rộng nhất dưới [[vương triều Bourbon]], khi đã chiếm được các đế chế lớn khác trên thế giới. Đế quốc Tây Ban Nha trở thành [[siêu cường]] trong thời gian đó và là đế quốc đầu tiên được gọi là "[[đế quốc có mặt trời không bao giờ lặn]]". |
||
Vào thế kỷ thứ 15 và 16 Tây Ban Nha là quốc gia tiên phong cho phong trào thám hiểm thế giới và chủ nghĩa bành trướng thuộc địa của châu Âu cũng như tiên phong trong việc mở các lộ trình giao thương qua đại dương, với việc thông thương phát triển nở rộ qua [[Đại Tây Dương]] giữa Tây Ban Nha với Mỹ và qua [[Thái Bình Dương]] giữa [[Châu Á - Thái Bình dương]] với [[México]] qua [[Philippines]]. Những người Tây Ban Nha đi khai phá thuộc địa đã lật đổ những nền văn minh [[Aztec]], [[Inca]], [[Maya]] và tuyên bố chủ quyền với một dải đất bao la ở [[Bắc Mỹ|Bắc]] và [[Nam Mỹ]]. Trong một khoảng thời gian, đế chế Tây Ban Nha thống trị các đại dương nhờ hạm đội tàu giàu kinh nghiệm, một sức mạnh bậc nhất toàn cầu, và họ thống trị những chiến trường ở châu Âu với một lực lượng bộ binh dày dạn và thiện chiến có tên là [[tercios]]. Tây Ban Nha trải qua thời kỳ vàng son về văn hóa trong thế kỷ 16 và 17. |
Vào thế kỷ thứ 15 và 16 Tây Ban Nha là quốc gia tiên phong cho phong trào [[Thời đại Khám phá|thám hiểm thế giới]] và chủ nghĩa bành trướng thuộc địa của châu Âu cũng như tiên phong trong việc mở các lộ trình giao thương qua đại dương, với việc thông thương phát triển nở rộ qua [[Đại Tây Dương]] giữa Tây Ban Nha với Mỹ và qua [[Thái Bình Dương]] giữa [[Châu Á - Thái Bình dương]] với [[México]] qua [[Philippines]]. Những người Tây Ban Nha đi khai phá thuộc địa đã lật đổ những nền văn minh [[Aztec]], [[Inca]], [[Maya]] và tuyên bố chủ quyền với một dải đất bao la ở [[Bắc Mỹ|Bắc]] và [[Nam Mỹ]]. Trong một khoảng thời gian, đế chế Tây Ban Nha thống trị các đại dương nhờ hạm đội tàu giàu kinh nghiệm, một sức mạnh bậc nhất toàn cầu, và họ thống trị những chiến trường ở châu Âu với một lực lượng bộ binh dày dạn và thiện chiến có tên là [[tercios]]. Tây Ban Nha trải qua thời kỳ vàng son về văn hóa trong thế kỷ 16 và 17. |
||
Từ giữa thế kỷ 16, vàng và bạc từ các mỏ ở châu Mỹ đã tăng cường tiềm lực quân sự của [[Tây Ban Nha Habsburg]] trong một chuỗi các cuộc chiến tại châu Âu và Bắc Phi. Vào thế kỷ 17 và 18, đế chế Tây Ban Nha có được một lãnh thổ rộng lớn nhất trên thế giới, dù nó có trải qua sự biến động trong quân đội và tài sản kinh tế từ thập niên 1640. Phải đương đầu với kinh nghiệm và thử thách mới trong việc xây dựng đế chế, các nhà tư tưởng Tây Ban Nha đã công thức ra một vài ý tưởng tân tiến trong các đạo luật thiên nhiên, quyền tối cao độc lập, đạo luật quốc tế, chiến tranh và kinh tế - họ thậm chí đặt dấu hỏi về tính hợp pháp của [[chủ nghĩa Đế quốc]] - liên quan đến những trường phái ý tưởng về tính tập thể như trường phái [[Salamanca]]. |
Từ giữa thế kỷ 16, vàng và bạc từ các mỏ ở châu Mỹ đã tăng cường tiềm lực quân sự của [[Tây Ban Nha Habsburg]] trong một chuỗi các cuộc chiến tại châu Âu và Bắc Phi. Vào thế kỷ 17 và 18, đế chế Tây Ban Nha có được một lãnh thổ rộng lớn nhất trên thế giới, dù nó có trải qua sự biến động trong quân đội và tài sản kinh tế từ thập niên 1640. Phải đương đầu với kinh nghiệm và thử thách mới trong việc xây dựng đế chế, các nhà tư tưởng Tây Ban Nha đã công thức ra một vài ý tưởng tân tiến trong các đạo luật thiên nhiên, quyền tối cao độc lập, đạo luật quốc tế, chiến tranh và kinh tế - họ thậm chí đặt dấu hỏi về tính hợp pháp của [[chủ nghĩa Đế quốc]] - liên quan đến những trường phái ý tưởng về tính tập thể như trường phái [[Salamanca]]. |
Phiên bản lúc 17:57, ngày 11 tháng 3 năm 2017
Đế quốc Thực dân Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Imperio español) là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực thịnh về quân sự, quyền lực chính trị và kinh tế dưới vương triều Habsburgs Tây Ban Nha, trong thế kỷ 16 và 17, có phạm vi rộng nhất dưới vương triều Bourbon, khi đã chiếm được các đế chế lớn khác trên thế giới. Đế quốc Tây Ban Nha trở thành siêu cường trong thời gian đó và là đế quốc đầu tiên được gọi là "đế quốc có mặt trời không bao giờ lặn".
Vào thế kỷ thứ 15 và 16 Tây Ban Nha là quốc gia tiên phong cho phong trào thám hiểm thế giới và chủ nghĩa bành trướng thuộc địa của châu Âu cũng như tiên phong trong việc mở các lộ trình giao thương qua đại dương, với việc thông thương phát triển nở rộ qua Đại Tây Dương giữa Tây Ban Nha với Mỹ và qua Thái Bình Dương giữa Châu Á - Thái Bình dương với México qua Philippines. Những người Tây Ban Nha đi khai phá thuộc địa đã lật đổ những nền văn minh Aztec, Inca, Maya và tuyên bố chủ quyền với một dải đất bao la ở Bắc và Nam Mỹ. Trong một khoảng thời gian, đế chế Tây Ban Nha thống trị các đại dương nhờ hạm đội tàu giàu kinh nghiệm, một sức mạnh bậc nhất toàn cầu, và họ thống trị những chiến trường ở châu Âu với một lực lượng bộ binh dày dạn và thiện chiến có tên là tercios. Tây Ban Nha trải qua thời kỳ vàng son về văn hóa trong thế kỷ 16 và 17.
Từ giữa thế kỷ 16, vàng và bạc từ các mỏ ở châu Mỹ đã tăng cường tiềm lực quân sự của Tây Ban Nha Habsburg trong một chuỗi các cuộc chiến tại châu Âu và Bắc Phi. Vào thế kỷ 17 và 18, đế chế Tây Ban Nha có được một lãnh thổ rộng lớn nhất trên thế giới, dù nó có trải qua sự biến động trong quân đội và tài sản kinh tế từ thập niên 1640. Phải đương đầu với kinh nghiệm và thử thách mới trong việc xây dựng đế chế, các nhà tư tưởng Tây Ban Nha đã công thức ra một vài ý tưởng tân tiến trong các đạo luật thiên nhiên, quyền tối cao độc lập, đạo luật quốc tế, chiến tranh và kinh tế - họ thậm chí đặt dấu hỏi về tính hợp pháp của chủ nghĩa Đế quốc - liên quan đến những trường phái ý tưởng về tính tập thể như trường phái Salamanca.
Những bất đồng thường xuyên với các thế lực thù địch đã gây ra các cuộc chiến về lãnh thổ, giao thương và tôn giáo mà đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn dần dần của đế chế Tây Ban Nha từ giữa thế kỷ 17. Trên Địa Trung Hải, Tây Ban Nha thường xuyên giao chiến với đế quốc Ottoman, trên lục địa châu Âu, Pháp vươn lên với một sức mạnh tương đương. Ở bên ngoài, Tây Ban Nha ban đầu bị cạnh tranh bởi Bồ Đào Nha, rồi sau đó là Anh và Hà Lan. Thêm vào đó, các lực lượng phá rối dưới sự đỡ đầu của Anh, Pháp và Hà Lan cùng với việc phạm tội quá mức của quân đội Tây Ban Nha, sự tham nhũng gia tăng của chính phủ và sự đình trệ về kinh tế gây ra bởi các chi tiêu quân đội đã phần nào đóng góp cho sự đi xuống của đế chế này.
Đế chế Tây Ban Nha tại châu Âu đã không thể thực hiện được do hiệp ước Utrecht (1713), hiệp ước đã cắt bỏ những lãnh thổ còn lại của Tây Ban Nha ở Ý và các quốc gia thuộc vùng đất thấp. Tài sản của Tây Ban Nha tăng lên sau đó, nhưng nó vẫn duy trì là một sức mạnh thứ hai về chính trị tại lục địa châu Âu.
Tuy nhiên, Tây Ban Nha duy trì và mở rộng đế chế bên ngoài của nó cho đến thế kỷ 19, cú sốc của cuộc chiến tranh bán đảo đã tạo nên một làn sóng tuyên bố độc lập tại Quito (1809), Colombia (1810), Venezuela và Paraguay (1811) đồng thời các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra đã cướp đi các thuộc địa của đế chế tại Đại Lục Châu Mỹ. Tây Ban Nha cố gắng duy trì những mảnh vụn của đế chế tại vùng Caribbean (Cuba và Puerto Rico); Châu Á (Philippines), và Châu Đại Dương (Guam, Micronesia, Palau, và Quần đảo Bắc Mariana) cho đến tận chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ nổ ra năm 1898. Sự tham gia của Tây Ban Nha trong cuộc tranh chấp châu Phi là rất nhỏ; vùng Maroc Tây Ban Nha (thuộc địa Maroc của Tây Ban Nha) được duy trì cho đến năm 1956, Guinea Tây Ban Nha và Sahara Tây Ban Nha được duy trì cho đến năm 1968 và 1975. Quần đảo Canary, Ceuta, Melilla là những khu vực hành chính hiện vẫn là một phần của Tây Ban Nha trong khi Isla de Alborán, Isla Perejil, Islas Chafarinas, Peñón de Alhucemas, và Peñón de Vélez de la Gomera vẫn là các lãnh thổ thuộc Tây Ban Nha. Và theo UN, "Sahara Tây Ban Nha/Tây Sahara" hiện vẫn dưới sự điều hành của Tây Ban Nha.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đế quốc Tây Ban Nha. |
Tham khảo
- ^ Cierva, Ricardo de la (2010). Historia total de Espana / Total History of Spain . Madrid: Editorial Fenix. ISBN 8488787618.