Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hương cống”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
'''Hương cống''' 鄉貢; hay '''Cống sĩ''' là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Loại học vị này được xác định trong |
'''Hương cống''' 鄉貢; hay '''Cống sĩ''' là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến, tức là đỗ tứ trường khoa thi Hương. Loại học vị này được xác định trong khoa [[thi Hương]]: là khoa thi được tổ chức theo lệ thường 3 năm có 1 khoa, nhiều tỉnh thi chung 1 trường, chẳng hạn khoa thi năm 1813 tại trường Quảng Đức có 8 tỉnh-chỉ lấy đỗ 9 người<ref>{{Chú thích web|url=https://758b6bf8-a-62cb3a1a-s-sites.googlegroups.com/site/pagevtbn/home/KHOA%20THI%20H%C6%AF%C6%A0NG%20N%C4%82M%20QU%C3%9D%20D%E1%BA%ACU%20%E2%80%93%20NI%C3%8AN%20HI%E1%BB%86U%20GIA%20LONG%20TH%E1%BB%A8%2012%20%281813%29.pdf|title=Khoa thi Hương, trường thi Quảng Đức 1813}}</ref>. Tùy theo khoa thi, nhưng số lượng lấy đỗ khá ít đỗ tứ trường gọi là Cống sĩ để bổ nhiệm làm quan, thí sinh xếp thứ nhất trong các Cống sĩ khoa thi Hương gọi là [[Giải nguyên]]. |
||
Vào đời [[nhà Hậu Lê]] mỗi khoa thi Hương có 4 kỳ (xưa gọi là 4 trường) kéo dài khoảng 1 tháng. Nội dung thi cơ bản như sau: |
Vào đời [[nhà Hậu Lê]] mỗi khoa thi Hương có 4 kỳ (xưa gọi là 4 trường) kéo dài khoảng 1 tháng. Nội dung thi cơ bản như sau: |
||
Dòng 7: | Dòng 7: | ||
*Kỳ IV: văn sách. |
*Kỳ IV: văn sách. |
||
Đỗ cả 3 kỳ thì được nhận học vị [[sinh đồ]]; đỗ cả 4 kỳ được nhận học vị Hương cống. |
|||
Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua [[Lê Thánh Tông]] đặt năm [[1466]]. |
Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua [[Lê Thánh Tông]] đặt năm [[1466]]. |
||
Đến năm [[1828]] vua [[Minh Mạng]] mới đổi cách gọi Hương cống thành '''Cử nhân:''' ở Việt Nam, không nên lầm lẫn giữa '''''Cử nhân Nho học triều Nguyễn |
Đến năm [[1828]] vua [[Minh Mạng]] mới đổi cách gọi Hương cống thành '''Cử nhân:''' ở Việt Nam, không nên lầm lẫn giữa '''''Cử nhân''' Nho học'' của triều Nguyễn (lấy ít người đậu, 3 năm một khoa thi) với '''''Cử nhân''' tân học'' (tốt nghiệp Đại học của nhiều trường trong nước ngày nay). |
||
==Xem thêm== |
==Xem thêm== |
Phiên bản lúc 20:26, ngày 21 tháng 7 năm 2017
Hương cống 鄉貢; hay Cống sĩ là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến, tức là đỗ tứ trường khoa thi Hương. Loại học vị này được xác định trong khoa thi Hương: là khoa thi được tổ chức theo lệ thường 3 năm có 1 khoa, nhiều tỉnh thi chung 1 trường, chẳng hạn khoa thi năm 1813 tại trường Quảng Đức có 8 tỉnh-chỉ lấy đỗ 9 người[1]. Tùy theo khoa thi, nhưng số lượng lấy đỗ khá ít đỗ tứ trường gọi là Cống sĩ để bổ nhiệm làm quan, thí sinh xếp thứ nhất trong các Cống sĩ khoa thi Hương gọi là Giải nguyên.
Vào đời nhà Hậu Lê mỗi khoa thi Hương có 4 kỳ (xưa gọi là 4 trường) kéo dài khoảng 1 tháng. Nội dung thi cơ bản như sau:
- Kỳ I: Kinh nghĩa, thư nghĩa;
- Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
- Kỳ III: thơ phú;
- Kỳ IV: văn sách.
Đỗ cả 3 kỳ thì được nhận học vị sinh đồ; đỗ cả 4 kỳ được nhận học vị Hương cống.
Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua Lê Thánh Tông đặt năm 1466.
Đến năm 1828 vua Minh Mạng mới đổi cách gọi Hương cống thành Cử nhân: ở Việt Nam, không nên lầm lẫn giữa Cử nhân Nho học của triều Nguyễn (lấy ít người đậu, 3 năm một khoa thi) với Cử nhân tân học (tốt nghiệp Đại học của nhiều trường trong nước ngày nay).
Xem thêm
Khoa bảng | ||
---|---|---|
Thi Hương | Thi Hội | Thi Đình |
Giải nguyên | Hội nguyên | Đình nguyên |
Hương cống Sinh đồ |
Thái học sinh Phó bảng |
Trạng nguyên Bảng nhãn Thám hoa Hoàng giáp Đồng tiến sĩ xuất thân |